Bản án 14/2020/HNGĐ-ST ngày 02/06/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TS, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 14/2020/HNGĐ-ST NGÀY 02/06/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN

Ngày 02 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TS xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 457/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 12 năm 2019 về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình – Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 19/2020/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Phạm Trung T, sinh năm 1997 (Có mặt) Địa chỉ: Khu vực 4, thị trấn Đ H, huyện Đ H, tỉnh Long An.

2. Bị đơn: Chị Trần Thị Mai Th, sinh năm 2000 (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp Trung Bình T1, xã VT, huyện TS, tỉnh An Giang.

(Đã được tống đạt thủ tục tố tụng hợp lệ)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn anh Phạm Trung T trình bày:

Anh và chị Trần Thị Mai Th do tự tìm hiểu và chung sống với nhau từ năm 2018, có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ H, huyện Đ H, tỉnh Long An ngày 06/12/2018. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Nhưng đến tháng 7/2019 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, có nhiều bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng thường hay cự cãi, nên chị Th về bên gia đình chị Th sinh sống. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 7 năm 2019 cho đến nay. Nhận thấy, tình cảm vợ chồng đã không còn, cuộc sống hôn nhân không thể hàn gắn và kéo dài nên anh yêu cầu được ly hôn với chị Trần Thị Mai Th.

- Về quan hệ con chung: Không có.

- Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có.

* Về phía bị đơn chị Trần Thị Mai Th: Trong quá trình thụ lý vụ án và hòa giải, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật và triệu tập hợp lệ đương sự đến lần thứ hai nhưng chị Th không gửi văn bản ghi ý kiến của bản thân, cũng không đến tham gia phiên hòa giải nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của chị Th.

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Việc Tòa án T1 hành thụ lý giải quyết là đúng theo trình tự thủ tục và thẩm quyền, trong quá trình T1 hành tố tụng Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương sự trong vụ án cũng thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Về nội dung: Căn cứ theo các quy định của pháp luật, đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Phạm Trung T. Về con chung: Không có. Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về ly hôn, bị đơn chị Trần Thị Mai Th có địa chỉ tại ấp Trung Bình T1, xã VT, huyện TS, tỉnh An Giang nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện TS theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn chị Trần Thị Mai Th đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử T1 hành xét xử vắng mặt bị đơn chị Trần Thị Mai Th.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Trung T và chị Trần Thị Mai Th chung sống với nhau từ năm 2018, có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ H, huyện Đ H, tỉnh Long An ngày 06/12/2018. Vì vậy, đây là hôn nhân hợp pháp phù hợp với quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của anh Phạm Trung T, Hội đồng xét xử xét thấy: Anh T và chị Th chung sống với nhau hạnh phúc thời gian đầu, nhưng đến tháng 7 năm 2019 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, có nhiều bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng thường hay cự cãi, nên chị Th về bên gia đình chị Th sinh sống. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 7 năm 2019 cho đến nay. Về phía chị Th, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng cho chị Th, tạo điều kiện cho chị Th hàn gắn tình cảm với anh T nhưng chị Th không đến tham dự các phiên hòa giải, xét xử và cũng không có văn bản nào nêu ý kiến phản đối về yêu cầu khởi kiện của anh T, cho thấy chị Th không có ý định hàn gắn tình cảm vợ chồng với anh T để xây dựng hạnh phúc gia đình. Hội đồng xét xử xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa anh T và chị Th đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó có đủ căn cứ để áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Phạm Trung T. [

2.2] Về quan hệ con chung: Không có.

[2.3] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Do anh Phạm Trung T yêu cầu giải quyết ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh Phạm Trung T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Trung T được ly hôn chị Trần Thị Mai Th.

Giấy chứng nhận kết hôn số 131/2018 ngày 06 tháng 12 năm 2018 của Ủy ban nhân dân thị trấn Đ H, huyện Đ H, tỉnh Long An không còn giá trị pháp lý.

2. Về quan hệ con chung: Không có.

3. Về quan hệ tài sản:

- Về tài sản chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Ghi nhận anh Phạm Trung T và chị Trần Thị Mai Th không có nợ chung, nhưng sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của anh, chị trong thời kỳ sống chung thì anh Phạm Trung T và chị Trần Thị Mai Th vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách là đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

4. Về án phí: Anh Phạm Trung T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000671 ngày 26 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TS, tỉnh An Giang.

5. Anh Phạm Trung T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Chị Trần Thị Mai Th có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2020/HNGĐ-ST ngày 02/06/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn

Số hiệu:14/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về