Bản án 14/2019/KDTM-ST ngày 04/11/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

A ÁN NHÂN N HUYỆN THU NGUYÊN, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 14/2019/KDTM-ST NGÀY 04/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 04 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 14/2019/TLST-KDTM ngày 06 tháng 3 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2019/QĐXXST-KDTM ngày 06 tháng 6 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 41/2019/QĐST-KDTM, ngày 05 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Q (tên viết tắt là VIB); địa chỉ trụ sở chính: Tầng 01 (tầng trệt) và tầng 02 Tòa nhà Sailing Tower, số 111A Pasteur, phường B, quận 01, thành phố H Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Vũ Thị Nguyệt N, chức vụ - Cán bộ Ngân hàng TMCP Q (theo Giấy ủy quyền số 3.0667.19, ngày 06/3/2019); Có mặt.

2. Bị đơn: Bà Đỗ Thị Ngọc Y và anh Vũ Văn H; Địa chỉ: Số 46, đường T, thị trấn M, huyện T, thành phố H; bà Đỗ Thị Ngọc Y có mặt, ông Vũ Văn H vắng mặt.

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Ông Đỗ Văn T (tên gọi khác Đỗ Văn Chuyên) và vợ bà Đinh Thị N; Địa chỉ: Thôn 2, xã G, huyện T, thành phố H. Có mặt ông T, bà N vắng mặt.

- Ông Vũ Minh H, sinh năm 1973; Địa chỉ: Số nhà 13/16/133, đường Chùa Hng, phường Hồ Nam, quận Lê Chân, thành phố H. Vắng mặt (Có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 12/02/2019, các lời khai tại Tòa án và tại phiên tòa nguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần Q do người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Năm 2013 vợ chồng ông Vũ Văn H, bà Đỗ Thị Ngọc Y vay vốn tại Ngân hàng TMCP Q – Phòng giao dịch T theo Hợp đồng tín dụng số: 130/HĐTD1- VIB32/13 ngày 26/3/2013 và phụ lục Hợp đồng số 130.01/PLHĐ-VIB32/13, ngày 17/10/ 2013 số tiền vay là 1.200.000.000 đồng, mục đích vay là bổ sung vốn lưu động kinh doanh sơn các loại, thời hạn vay là theo từng khế ước nhận nợ, lãi suất vay áp dụng tại thời điểm giải ngân, chịu sự điều chỉnh theo chính sách lãi suất của VIB theo từng thời kỳ và phù hợp với quy định của pháp luật, thời hạn trả gốc của từng món vay không quá 06 tháng kể từ ngày nhận nợ, trả lãi hàng tháng. Tài sản đảm bảo cho món vay là quyền sử dụng 891m2 đất và toàn bộ tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 55, tờ bản đồ số 23, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 073541 do UBND huyện T cấp ngày 22/12/2005 cho chủ sử dụng là ông Đỗ Văn T, bà Đinh Thị N theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở của bên thứ ba số 130.01/017/BĐ, số công chứng 4651.CVN/2013.HĐTC quyển số 03.AP-TP/CC-SCC/HĐGD do Phòng công chứng An Phát chứng nhận ngày 17/10/2013. Thực hiện đúng nội dung Hợp đồng mà các bên đã ký kết Ngân hàng VIB đã giải ngân cho bên vay ông Vũ Văn H, bà Đỗ Thị Ngọc Y theo Khế ước nhận nợ số 130.02/KƯNN1-VIB32/13 ngày 27/9/2013 và Khế ước số 130.03/KƯNN-VIB32/13 ngày 18/10/2013, tuy nhiên quá trình thực hiện hợp đồng do ông H, bà Y vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên VIB đã chuyển toàn bộ khoản vay trên sang nợ quá hạn kể từ ngày 27/3/2014, Ngân hàng đã nhiều lần liên lạc, ra các thông báo yêu cầu ông H, bà Y cùng với bên thứ 3 vợ chồng ông T, bà N để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng VIB Nng các bên đều không có thiện chí và không thực hiện việc trả nợ theo nội dung Hợp đồng tín dụng mà hai bên đã ký kết. Tính đến ngày 04/11/2019 ông Vũ Văn H, bà Đỗ Thị Ngọc Y còn nợ Ngân hàng VIB tổng số tiền là: 2.438.511.818 đồng; trong đó nợ gốc là: 1.200.000.000 đồng; nợ lãi trong hạn là: 68.470.755 đồng; lãi quá hạn là 1.170.041.063 đồng. Nay Ngân hàng VIB đề nghị Tòa án giải quyết buộc ông Vũ Văn H, bà Đỗ Thị Ngọc Y phải trả cho Ngân hàng toàn bộ số tiền nợ trên và tiền lãi phát sinh theo mức tính lãi suất nợ quá hạn do các bên thỏa thuận tại các Hợp đồng tín dụng kể từ ngày 05/11/2019 cho đến khi trả hết nợ. Trường hợp ông H, bà Y không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng thương mại cổ phần Q có quyền yêu cầu Chi cục thi hành án dân sự huyện T, thành phố H phát mại tài sản thế chấp là quyền sử dụng diện tích 891m2 đất tại thửa đất số 55, tờ bản đồ số 23, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 073541 do UBND huyện T cấp ngày 22/12/2005 cho chủ sử dụng là ông Đỗ Văn T và bà Đinh Thị N để thu hồi nợ cho Ngân hàng theo nội dung Hợp đồng thế chấp mà bên thứ 3 là vợ chồng ông Đỗ Văn T, bà Đinh Thị N đã ký kết.

Tại bản tự khai ngày 19/3/2019, các lời khai tại Tòa án ông Vũ Văn H, bà Đỗ Thị Ngọc Y thống nhất trình bày: Năm 2013 vợ chồng ông H, bà Y có đứng ra ký Hợp đồng tín dụng vay vốn Ngân hàng thương mại cổ phần Q – Chi nhánh H lúc đó do ông Vũ Minh H làm giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng VIB tại T vợ chồng ông, bà chỉ biết ông H là bạn của chị gái chồng, vì tin tưởng chị gái nên vợ chồng ông, bà đã đứng ra ký toàn bộ Hợp đồng tín dụng với Ngân hàng VIB để vay vốn Ngân hàng, tại thời điểm ký Hợp đồng vợ chồng ông bà không biết cụ thể số tiền vay là bao nhiêu, cho đến sau này vợ chồng ông H, bà Y mới biết vợ chồng ông bà ký Hợp đồng tín dụng vay vốn Ngân hàng VIB số tiền là 1.200.000.000 đồng Ngân hàng VIB đã thực hiện việc giải ngân đầy đủ vợ chồng ông, bà đã ký các Khế ước nhận nợ và các chứng từ tại Ngân hàng Nng ai là người sử dụng tiền vay và sử dụng N nào vợ chồng ông H, bà Y không biết và không liên quan gì. Sau khi ký Hợp đồng tín dụng xong ông H đã cam kết sẽ có trách nhiệm trả cho Ngân hàng VIB toàn bộ khoản vay, tài sản bảo đảm cho khoản vay trên cho đến sau này ông bà mới biết là của vợ chồng ông Đỗ Văn T, bà Đinh Thị N người ở thôn 2, xã G, huyện T, thành phố H. Nay Ngân hàng có đơn khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông bà phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng theo nội dung Hợp đồng mà vợ chồng ông bà đã ký kết quan điểm của bà Y, ông H đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật. Tại phiên tòa bà Đỗ Thị Ngọc Y trình bày đề nghị Ngân hàng VIB tạo điều kiện xem xét giảm lãi và cho trả dần tiền gốc vay.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 19/3/2019 và bản tự khai ngày 08/4 và ngày 26/6/2019 cùng các lời khai tại Tòa án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Văn T, bà Đinh Thị N thống nhất trình bày:

Năm 2013 ngày tháng cụ thể vợ chồng ông T, bà N không nhớ rõ do làm ăn cần vay vốn Ngân hàng VIB nên đã tìm đến Ngân hàng và gặp giám đốc phòng giao dịch của Ngân hàng VIB chi nhánh T là ông Vũ Minh H để hỏi làm thủ tục vay vốn Ngân hàng VIB, lúc đó ông H có hỏi vợ chồng ông, bà cần vay bao nhiêu vợ chồng ông có nói cần vay số tiền là 200.000.000 đồng, sau khi nói chuyện xong ông H bảo vợ chồng ông đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H, đến khoảng 15 ngày sau ông H gọi vợ chồng ông lên ký hồ sơ vay tiền, vợ chồng ông bà chỉ ký mà không đọc nội dung, sau khi ký xong toàn bộ các giấy tờ mà cán bộ Ngân hàng yêu cầu ký vợ chồng ông, bà được ông H đưa cho số tiền vay là 260.000.000 đồng và nói mỗi tháng phải trả cho Ngân hàng VIB là 3.000.000 đồng tiền lãi, vợ chồng ông, bà đã đưa cho ông H trước 4 tháng tiền lãi là bằng 12.000.000 đồng. Sau khi nhận được tiền vì làm ăn thua lỗ nên vợ chồng ông đã phải đi làm ăn xa (đi sang Trung Quốc) làm thuê kiếm tiền trả nợ đến 2 năm sau về nhà thì vợ chồng ông đến Ngân hàng để hỏi làm thủ tục trả nợ lúc đó vợ chồng ông, bà mới biết tài sản của vợ chồng ông dùng thế chấp cho khoản vay 1.200.000.000 đồng người đứng tên ký Hợp đồng vay vốn Ngân hàng VIB là vợ chồng anh Vũ Văn H, chị Đỗ Thị Ngọc Y, vợ chồng ông, bà không có quen biết và có quan hệ họ hàng làm ăn gì với vợ chồng anh H, chị Y. Nay Ngân hàng VIB khởi kiện quan điểm của vợ chồng ông T, bà N đề nghị Tòa án xem xét giải quyết vợ chồng ông đồng ý nhận trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng tổng số tiền gốc thực tế vợ chồng ông bà được vay là 260.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh kể từ thời điểm ký Hợp đồng cho đến nay theo quy định của pháp luật, số tiền gốc còn là là 940.000.000 đồng cụ thể do ông Vũ Minh H sử dụng nên đề nghị Tòa án buộc ông Vũ Minh H và vợ chồng ông H, bà Y là người ký Hợp đồng tín dụng với Ngân hàng VIB phải có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng và tiền lãi phát sinh kể từ thời điểm vi phạm cho đến nay để Ngân hàng VIB trả lại giấy tờ nhà đất cho vợ chồng ông bà vì đây là nơi ở duy nhất của vợ chồng ông, ông T, bà N không đồng ý phát mại toàn bộ tài sản đã thế chấp.

Tại bản tự khai ngày 10/5/2019 ông Vũ Minh H trình bày:

Năm 2013 do mối quan hệ bạn bè nên ông H có nhờ vợ chồng anh H, chị Y (là em của bạn) đứng ra ký hợp đồng tín dụng với Ngân hàng VIB tại thời điểm đó ông H là giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng VIB-Chi nhánh T, tài sản đảm bảo cho món vay là quyền sử dụng diện tích đất tại thôn 2, xã G, huyện T, thành phố H đứng tên chủ sử dụng và vợ chồng ông Đỗ Văn T, bà Đinh Thị N. Sau khi vợ chồng bà Y, ông H ký Hợp đồng tín dụng, vợ chồng ông T, bà N ký Hợp đồng thế chấp tại Ngân hàng VIB, Ngân hàng đã thực hiện việc giải ngân theo đúng quy định của Hợp đồng, vợ chồng ông H, bà Y sau khi ký nhận tiền vay có đồng ý cho ông vay lại số tiền là 1.200.000.000 đồng, cùng thời điểm đó ông H có đưa cho vợ chồng ông T, bà N vay số tiền là 260.000.000 đồng để vợ chồng ông T, bà N sử dụng tiền vào việc làm ăn và có viết kèm theo 1 giấy biên nhận viết ngày 17/01/2014 ghi: “ ông H cho vợ chồng ông T, bà N vay số tiền 260.000.000 đồng và ghi rõ mức lãi suất phải trả là 3.000.000 đồng /tháng”, số tiền gốc còn lại ông H cho bạn vay làm ăn, nay vì điều kiện làm ăn thua lỗ không trả được nợ cho Ngân hàng VIB, Ngân hàng có đơn khởi kiện quan điểm của ông H đồng ý nhận trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng, do điều kiện các bên làm ăn khó khăn thua lỗ nên ông H đề nghị Ngân hàng VIB tạo điều kiện giúp đỡ để các bên có thời gian tìm nguồn tiền trả nợ cho Ngân hàng và đề nghị Ngân hàng xem xét miễn giảm một phần tiền lãi cho các bên để thực hiện việc trả nợ cho Ngân hàng.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật và về việc giải quyết vụ án N sau: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã đảm bảo tuân theo đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn bà Đỗ Thị Ngọc Y, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Văn T, ông Vũ Minh H đã chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn ông Vũ Văn H, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đinh Thị N, ông Vũ Minh H chưa thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tại Điều 70, Điều 73 của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 30, 35, 39, 91, 92, 97, 147, Điều 227, 228 Bộ Luật tố tụng dân sự; Điều 122, Điều 320, 342, 471, 474,476, 715 và Điều 721 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 117, 463, 468, 468 và Điều 688 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 90, Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc ông Vũ Văn H, bà Đỗ Thị Ngọc Y phải trả toàn bộ số tiền còn nợ cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Q và tiền lãi phát sinh kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, ông Vũ Văn H, bà Đỗ Thị Ngọc Y còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất các bên thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng. Nếu ông Vũ Văn H, bà Đỗ Thị Ngọc Y không trả được nợ thì Ngân hàng TMCP Q có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án phát mại tài sản đã thế chấp theo Hợp đồng thế chấp mà bên thứ ba đã ký kết là ông Đỗ Văn T, bà Đinh Thị N; Về án phí, do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn ông Vũ Văn H, bà Đỗ Thị Ngọc Y phải nộp án phí theo quy định của pháp luật, trả lại nguyên đơn Ngân hàng VIB số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định của pháp luật. giải quyết về án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Bị đơn ông Vũ Văn H, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đinh Thị N vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Ông Vũ Minh H vắng mặt Nng có đơn xin xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt ông H, bà N và ông H.

[2]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp về hợp đồng tín dụng đã ký giữa các đương sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3]. Về nội dung: Ngân hàng thương mại cổ phần Q yêu cầu vợ chồng ông Vũ Văn H, bà Đỗ Thị Ngọc Y thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng số tiền nợ theo Hợp đồng tín dụng số: 130/HĐTD1-VIB32/13 ngày 26/3/2013 và phụ lục Hợp đồng số 130.01/PLHĐ-VIB32/13, ngày 17/10/ 2013 và tại các Khế ước nhận nợ số 130.02/KƯNN1-VIB32/13 ngày 27/9/2013 và Khế ước số 130.03/KƯNN- VIB32/13 ngày 18/10/2013, qua nhiều lần đôn đốc Nng vợ chồng ông H, bà Y không trả được tính đến ngày 04/11/2019 ông H, bà Y còn nợ Ngân hàng tổng bằng: 2.438.511.818 đồng; trong đó nợ gốc là: 1.200.000.000 đồng; nợ lãi trong hạn là: 68.470.755 đồng; lãi quá hạn là 1.170.041.063 đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn là ông Vũ Văn H, bà Đỗ Thị Ngọc Y thừa nhận có ký hợp đồng tín dụng và các Khế ước nhận nợ N đại diện Ngân hàng đã trình bày là đúng. Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông H, bà Y phải trả cho Ngân hàng toàn bộ khoản nợ trên, tại phiên tòa bị đơn bà Đỗ Thị Ngọc Y trình bày sau khi Ngân hàng giải ngân số tiền trên do ông Vũ Minh H (nguyên là giám đốc Chi nhánh Ngân hàng VIB) sử dụng, vì vợ chồng bà chỉ là người đứng ra vay hộ cho ông Vũ Minh H, do đó vợ chồng bà yêu cầu ông H phải có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng. Quá trình giải quyết vụ án ông Vũ Minh H thừa nhận có sử dụng tiền vay nên ông đồng ý nhận trách nhiệm trả nợ và đề nghị Ngân hàng xem xét miễn giảm tiền lãi. Tại phiên tòa nguyên đơn không đồng ý với yêu cầu của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vì việc vay hộ giữ bị đơn với ông Vũ Minh H ngân hàng không được biết nên Ngân hàng vẫn giữ nguyên yêu cầu buộc vợ chồng ông Vũ Văn H, bà Đỗ Thị Ngọc Y phải có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng. Hội đồng xét xử xét, căn cứ vào Hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa Ngân hàng TMCP Q đứng tên người vay là hộ kinh doanh cá thể ông Vũ Văn H, bà Đỗ Thị Ngọc Y. Ông H, bà Y thừa nhận có làm thủ tục vay tại Ngân hàng VIB – Chi nhánh T và có ký Khế ước nhận nợ tại Ngân hàng và căn cứ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được công bố công khai tại phiên tòa xác định: Ông Vũ Văn H và bà Đỗ Thị Ngọc Y có vay Ngân hàng TMCP Q – Chi nhánh H, tại thời điểm ký kết hợp đồng các bên có đủ năng lực hành vi dân sự, việc ký kết các hợp đồng tín dụng và Khế ước nhận nợ là hoàn toàn tự nguyện, các thỏa thuận có nội dung và mục đích để thực hiện nhu cầu của mỗi bên, không vi phạm điều cấm của Luật và không trái đạo đức xã hội. Trong quá trình thực hiện hợp đồng Ngân hàng thương mại cổ phần Q – Chi nhánh H đã giải ngân đủ số tiền vay theo hợp đồng tín dụng đã ký, vợ chồng ông H, bà Y đã nhận đủ số tiền vay. N vậy, Ngân hàng đã thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, việc vợ chồng ông H, bà Y không thực hiện nghĩa vụ thanh toán trả nợ cho Ngân hàng là vi phạm nghĩa vụ trả nợ do các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Do vậy, không chấp nhận yêu cầu của bị đơn. Căn cứ các Điều 91, 92 và Điều 97 Bộ luật tố tụng Dân sự; Điều 90, Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 122, Điều 320, 342, 471, 474,476 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 117, 463, 468, 468 và Điều 688 của Bộ luật Dân sự năm 2015 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng buộc vợ chồng ông Vũ Văn H, bà Đỗ Thị Ngọc Y phải thanh toán số tiền nợ tính đến ngày 04/11/2019 tổng bằng: 2.438.511.818 đồng; trong đó nợ gốc là: 1.200.000.000 đồng; nợ lãi trong hạn là: 68.470.755 đồng; lãi quá hạn là 1.170.041.063 đồng và tiền lãi phát sinh kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, ông H, bà Y còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất các bên thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng.

[4]. Về yêu cầu xử lý tài sản thế chấp: Là quyền sử dụng 891m2 đất và toàn bộ tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 55, tờ bản đồ số 23, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 073541 do UBND huyện T cấp ngày 22/12/2005 cho chủ sử dụng là ông Đỗ Văn T, bà Đinh Thị N. Quá trình giải quyết vụ án ông T, bà N không đồng ý phát mại tài sản trên vì cho rằng đây là nơi ở duy nhất của vợ chồng ông và vợ chồng ông không được sử dụng toàn bộ khoản tiền vay nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, tại phiên tòa ông T vẫn giữ nguyên quan điểm không đồng ý phát mại tài sản. Đại diện nguyên đơn trình bày vẫn giữ nguyên quan điểm nếu bị đơn không trả được nợ cho Ngân hàng thì đề nghị Tòa án tuyên phát mại tài thế chấp để thu hồi nợ cho Ngân hàng. Hội đồng xét xử xét: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà số 130.01/017/BĐ, số công chứng 4651.CVN/2013.HĐTC quyển số 03.TP/CC-SCC/HĐGD do Phòng công chứng An Phát chứng nhận ngày 17/10/2013 tài sản là quyền sử dụng 891m2 đt và toàn bộ tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 55, tờ bản đồ số 23, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 073541 do UBND huyện T cấp ngày 22/12/2005 cho chủ sử dụng là ông Đỗ Văn T, bà Đinh Thị N. Hội đồng xét xử, xét: Hợp đồng thế chấp được ký kết giữa vợ chồng ông T, bà N với Ngân hàng VIB là hoàn toàn tự nguyện, hợp đồng thế chấp đã được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật, nên ông T không đồng ý phát mại là không có cơ sở chấp nhận. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ và toàn bộ tài sản đã thế chấp theo Hợp đồng thế chấp đến nay vẫn giữ nguyên hiện trạng không có gì thay đổi, toàn bộ tài sản trên đất do vợ chồng ông Đỗ Văn T, bà Đinh Thị N làm nên. Vì vậy trường hợp ông Vũ Văn H, bà Đỗ Thị Ngọc Y không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần Q có quyền yêu cầu Chi cục thi hành án dân sự huyện T, thành phố H phát mại tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở của bên thứ ba để thu hồi nợ là phù hợp quy định tại các Điều 715, Điều 721 của Bộ luật dân sự năm 2005.

[5]. Về nghĩa vụ chịu án phí, yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng được chấp nhận nên ông Vũ Văn H, bà Đỗ Thị Ngọc Y có nghĩa vụ chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Trả lại cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Q số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 30, 35, 39, 91, 92, 97, 147, Điều 227, 228 Bộ Luật tố tụng dân sự; Điều 122, Điều 320, 342, 471, 474,476, 715 và Điều 721 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 117, 463, 468, 468 và Điều 688 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 90, Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Q buộc ông Vũ Văn H và bà Đỗ Thị Ngọc Y có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Q số tiền tính đến ngày 04/11/2019 tổng bằng: 2.438.511.818 đồng; trong đó nợ gốc là: 1.200.000.000 đồng; nợ lãi trong hạn là: 68.470.755 đồng; lãi quá hạn là 1.170.041.063 đồng tại Hợp đồng tín dụng số 130/HĐTD1-VIB32/13 ngày 26/3/2013 và phụ lục Hợp đồng số 130.01/PLHĐ-VIB32/13 ngày 17 tháng 10 năm 2013.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, ông Vũ Văn H, bà Đỗ Thị Ngọc Y còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

2. Về xử lý tài sản thế chấp: Trong trường hợp ông Vũ Văn H và bà Đỗ Thị Ngọc Y không trả nợ hoặc trả không hết nợ thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần Q có quyền yêu cầu Chi cục thi hành án dân sự huyện T, thành phố H phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ: quyền sử dụng 891m2 đt và toàn bộ tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 55, tờ bản đồ số 23, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 073541 do UBND huyện T cấp ngày 22/12/2005 cho chủ sử dụng là ông Đỗ Văn T, bà Đinh Thị N theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà số 130.01/017/BĐ, số công chứng 4651.CVN/2013.HĐTC quyển số 03.TP/CC-SCC/HĐGD do Phòng công chứng An Phát chứng nhận ngày 17/10/2013.

3. Về án phí: Ông Vũ Văn H và bà Đỗ Thị Ngọc Y có nghĩa vụ nộp án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 80.770.000 đ (Tám mươi triệu, bảy trăm bảy mươi nghìn) đồng. Trả lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần Q số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 21.000.000đ (Hai mươi mốt triệu) đồng tại Biên lai thu tạm ứng án phí số 0000389, ngày 05 tháng 3 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, thành phố H.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự ; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

395
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2019/KDTM-ST ngày 04/11/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:14/2019/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 04/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về