Bản án 14/2019/HS-ST ngày 26/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 14/2019/HS-ST NGÀY 26/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Vào hồi 13 giờ 30 phút ngày 26 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 13/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lầu A K; tên gọi khác: Không; sinh năm 1982; tại xã M, huyện Q, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản L, xã M, huyện Q, tỉnh Sơn La; dân tộc: Mông; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hoá: Không biết chữ; con ông: Lầu Sái G, sinh năm 1946 và con bà: Sùng Thị N, sinh năm 1949; bị cáo chung sống như vợ chồng với chị Mùa Thị Đ nhưng đến năm 2008 thì không còn sống chung nữa và có 02 người con chung với chị Đ; năm 2009 bị cáo chung sống như vợ chồng với chị Giàng Thị P và có 01 người con với chị P; con lớn nhất của bị cáo sinh năm 2001; con nhỏ nhất sinh năm 2010; tiền sự: Không; tiền án: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 21/12/2018 đến ngày 26/12/2018 và bị tạm giam từ ngày 27/12/2018 cho đến nay. Bị cáo được trích xuất áp giải và có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Giàng A N; tên gọi khác: Không; sinh năm 1965; tại xã P, huyện T, tỉnh Điện Biên; nơi cư trú: Bản H, xã P, huyện T, tỉnh Điện Biên; dân tộc: Mông; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hoá: Không biết chữ; con ông: Giàng A T, đã chết và con bà: Sùng Thị P, đã chết; bị cáo có vợ là Sùng Thị C; sinh năm: 1966 và có 06 người con; con lớn nhất sinh năm 1986, con nhỏ nhất sinh năm 1999; tiền sự: Không; tiền án: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 21/12/2018 đến ngày 26/12/2018 và bị tạm giam từ ngày 27/12/2018 cho đến nay. Bị cáo được trích xuất áp giải và có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo Giàng A N có: Ông Lê Đình T - Luật sư, cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên; có mặt.

* Người phiên dịch cho bị cáo Giàng A N có: Ông Giàng A T; trú tại: Bản P, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; có mặt.

* Bị hại: Họ và tên: Thào Thị S; tên gọi khác: Không; sinh năm 1988; nơi cư trú: Bản H, xã, huyện T, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp. Có mặt.

* Người có nghĩa vụ liên quan: Họ và tên: Giàng Thị P; tên gọi khác: Không; sinh năm 1988; nơi cư trú: Bản L, xã M, huyện Q, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Nông nghiệp. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 00 phút, ngày 18/12/2018, Lầu A K đi xe máy nhãn hiệu ESPERO màu đen, biển kiểm soát 27Z1-07876 từ nhà ở bản Lốm K, xã M, huyện Q, tỉnh Sơn La; đến bản P, xã P, huyện T, tỉnh Điện Biên. Khi đến bản P thì K gặp Giàng A S; cư trú tại bản P, xã P, huyện T, tỉnh Điện Biên. Khi gặp nhau, K đã nhờ S đưa đi tán gái nhưng S không biết nhà nào có con gái; nên S đã đồng ý dẫn K đến nhà Giàng A N ở bản H, xã P, huyện T, tỉnh Điện Biên và bảo N dẫn K đi tán gái; sau đó S đi về nhà S. Khoảng 22 giờ cùng ngày, N dẫn K đến nhà ông Vàng Phá C, là người cùng bản với N để tán gái. Khi đến nhà ông C, N đứng chờ; còn K đi vào nhà soi đèn pin thì nghe thấy giọng một người phụ nữ nói “Ai đó, nhà không có gái đâu, đi về đi”. Khi nghe thấy vậy K quay ra, lúc quay ra K soi đèn pin phát hiện thấy trên bàn uống nước ở ngoài nhà có một chiếc túi vải thổ cẩm màu đỏ của chị Thào Thị S con dâu ông Vàng Phá C để quên. K cầm lên và biết bên trong có tiền nên đã trộm cắp cất giấu trong túi quần rồi quay ra nói với N “Đi về thôi, không tán gái nữa”. Khi đi về cách nhà chị S khoảng 300 mét, K mới nói với N biết về việc trộm cắp túi tiền và bảo N soi đèn pin để K đếm tiền được tổng cộng 17.000.000đ (Mười bảy triệu đồng); những tờ tiền đều có mệnh giá 100.000đ. Sau khi đếm xong K chia cho N 8.000.000đ (Tám triệu đồng); K dặn N đừng nói cho ai biết và đốt chiếc túi đi. Sau khi N nhận 8.000.000đ, N đưa lại cho K 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) để K đi mua điện thoại cho N. Sau khi chia tiền xong, cả hai đi về nhà N. Sau đó thì K đi đến nhà ông Vàng A S ở bản P, xã P, huyện T để ngủ và gọi điện cho chị Giàng Thị P nói là đi chơi nhặt được tiền. Đến sáng ngày 19/12/2018, K đi về nhà và đưa cho chị P số tiền 9.000.000đ (Chín triệu đồng). Ngày 21/12/2018 K cầm 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) của N đưa đi mua một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Itel giá 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), 01 thẻ nhớ và 01 sim điện thoại hết 140.000đ (Một trăm bốn mươi nghìn đồng) cho N. Khi K đang trên đường đến nhà N để đưa điện thoại cho Nhù thì bị Công an bắt giữ. Còn N, sau khi K đi về nhà; N lấy chiếc túi thổ cẩm màu đỏ mang đốt và cất giấu 7.500.000đ. Đến sáng ngày 19/12/2018, N lấy tiền đi mua một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) và chi tiêu ăn uống hết 1.200.000đ (Một triệu hai trăm nghìn đồng); số tiền còn lại 5.800.000đ Giàng A N đã giao nộp cho Công an đồn Mùn Chung. Cả N và K đã được đưa về cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo để điều tra làm rõ.

Ngày 22/12/2018 chị Giàng Thị P (Là người chung sống như vợ chồng với Lầu A K) đã giao nộp cho Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Tuần Giáo số tiền Kđưa là 9.000.000đ. Qua lời khai của chị P, chị không biết số tiền này, do K thực hiện hành vi phạm tội mà có do K không nói.

Ngày 29/01/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Tuần Giáo đã ra Yêu cầu định giá tài sản số: 46; tại kết luận định giá tài sản số: 05/KL-ĐG ngày 29/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản đã kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung (Màn hình cảm ứng) có giá trị 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng); 01 điện thoại di động màu đen, viền màu vàng cam nhãn hiệu Itel giá trị là 100.000đ (Một trăm nghìn đồng).

Tại Cáo trạng số: 13/CT-VKS-TG ngày 25 tháng 02 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Lầu A K về hành vi Trộm cắp tài sản và Giàng A N về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Tại phiên tòa Vị Kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lầu A K phạm tội Trộm cắp tài sản và bị cáo Giàng A N phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lầu A K từ 09 tháng đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng; giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã M và gia đình có trách nhiệm quản lý, giáo dục. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Giàng A N từ 09 tháng đến 12 tháng tù cho hưởng án treo; thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng; giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã P và gia đình có trách nhiệm quản lý, giáo dục. Áp dụng khoản 5 Điều 173 và khoản 5 Điều 323 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 không phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo do gia đình các bị cáo thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo không có khả năng thi hành. Cần áp dụng Điều 47, Điều 48 BLHS; Điều 106 BLTTHS trả lại cho Lầu A K: 01 xe máy hiệu ESPERO loại 110BS màu đen biển kiểm soát 27Z1-078.76 số khung 165301, số máy 165301, 01 đăng ký xe mô tô mang tên Giàng A T, 01 chứng minh nhân dân số 051024791 mang tên Lầu A K, 01 giấy phép lái xe số 140147010033 mang tên Lầu A K, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm mô tô xe máy số 0570196, 01 điện thoại nhãn hiệu HOTWAV màu đen, viền màu cam đã qua sử dụng, 01 ví màu đen bên trong có 480.000đ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành vì không liên quan đến hành vi phạm tội. Do các bên thỏa thuận nên cần trả cho chị Thào Thị S: 01 chiếc điện thoại di động SamSung màn hình cảm ứng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu ITEL màu đen, viền trắng đã qua sử dụng, 01 thẻ sim, 01 thẻ nhớ. Tịch thu tiêu hủy 01 đèn pin dạng đội đầu màu sáng có dây màu đen và 01 phong bì niêm phong chiếc điện thoại SamSung thu giữ của Khua. Buộc bị cáo K trả lại số tiền mua điện thoại và thẻ sim, thẻ nhớ còn thừa cho chị Thào Thị S số tiền là 260.000đ (Hai trăm sáu mươi nghìn đồng). Buộc Giàng A N phải bồi thường thiệt hại sau khi đã trừ tiền điện thoại mà Nhù đưa cho K mua điện thoại còn thừa thì N phải bồi thường số tiền cho chị Thào Thị S là: 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng).

Tại phiên tòa chị S đề nghị buộc với Giàng A N trả lại bị hại số tiền sau khi đã trừ đi hai cái điện thoại, thẻ nhớ, sim điện thoại còn lại là 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) và bị cáo K trả cho chị số tiền N nhờ Khua mua điện thoại, thẻ sim, thẻ nhớ còn thừa là 260.000đ (Hai trăm sáu mươi nghìn đồng), chị S không yêu cầu lãi suất đối với số tiền. Về hình phạt đề nghị giải quyết theo quy định của Pháp luật đối với các bị cáo.

Luận cứ bào chữa cho bị cáo Giàng A N: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và Nghị quyết số 02/2018 của Tòa án nhân dân Tối Cao xử phạt bị cáo Vàng A N mức án thấp nhất cho hưởng án treo; giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã P và gia đình có trách nhiệm quản lý, giáo dục. Đề nghị không phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm vì hộ nghèo

Tại phiên tòa, các bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo K nhận phạm tội “Trộm cắp tài sản”, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và đề nghị miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự cho bị cáo. Bị cáo N nhận phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đề nghị miễn án phí dân sự sơ thẩm và án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Lầu A K thừa nhận: Khoảng 18 giờ 00 phút, ngày 18/12/2018, Lầu A K đi xe máy nhãn hiệu ESPERO màu đen, biển kiểm soát 27Z1-07876 từ nhà ở bản L, xã M, huyện Q, tỉnh Sơn La; đến bản P, xãP, huyện T, tỉnh Điện Biên để tán gái. Khi đến đây K đã được giới thiệu để N đưa đi tán gái; trong quá trình đi tán gái t ại nhà ông Vàng Phá C, bị cáo đã nhìn thấy 01 túi vải, bị cáo biết trong đó có tiền nên đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Bị cáo K đã có hành vi lén lút trộm cắp của chị Thào Thị S. Tổng giá trị tài sản trộm cắp được là 17.000.000 đồng (Mười bảy triệu đồng). Sau khi trộm cắp được tài sản bị cáo đã nói với N và chia cho Giàng A N số tiền 8.000.000đ (Tám triệu đồng), đồng thời dặn N không được nói với ai; còn bị cáo giữ lại 9.000.000đ (Chín triệu đồng) và đưa cho chị P, nhưng bị cáo không nói tiền do bị cáo trộm cắp. Mặc dù biết là tiền do trộm cắp mà có, nhưng N cũng đã đồng ý với K không nói với ai và nhận số tiền do K đưa. Xét lời nhận tội của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, phù hợp nội dung Kết luận điều tra, Cáo trạng, bị hại. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lầu A K đã phạm tội Trộm cắp tài sản, theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và Giàng A N đã phạm tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 như Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố và kiểm sát viên luận tội là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. 

[2] Xét tính chất, mức độ phạm tội thấy: Các bị cáo phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng. Các bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của chị Thào Thị S được pháp luật bảo vệ. Bởi vậy, cần phải đưa ra mức án thật nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe phòng ngừa chung.

[3] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với các bị cáo:

Bị cáo Lầu A K từ nhỏ sống phụ thuộc gia đình, lớn lên thì lao động sản xuất cùng gia đình. Năm 2001 chung sống như vợ chồng với chị Mùa Thị Đ cho đến năm 2008 và có 02 người con; đến năm 2009 thì bắt đầu sống chung như vợ chồng với chị Giàng Thị P và có 01 người con. Ngày 26/12/2018, bị cáo bị khởi tố về hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; khi có hành vi vi phạm bị cáo đã nhanh chóng khắc phục hậu quả; bị cáo có bố đẻ được tặng Huân chương kháng chiến hạng ba nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s; i; b khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo có sức khỏe lao động, lẽ ra bị cáo phải cần cù chịu khó để lao động mang lại những thu nhập chính đáng phục vụ đời sống của mình. Nhưng chỉ vì lòng tham, muốn có tiền một cách dễ dàng, bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật thực hiện hành vi phạm tội. Từ hành động của bị cáo, đã gây không ít những tâm lý hoang mang lo lắng trong nhân dân. Hành vi của bị cáo thể hiện thái độ coi thường pháp luật, không có ý thức tôn trọng quyền về tài sản của người khác. Bởi vậy Hội đồng xét xử cần đưa ra mức án thật nghiêm khắc, để cải tạo giáo dục bị cáo; giúp bị cáo trở thành người tốt, người có ích cho gia đình và xã hội.

Bị cáo Giàng A N từ nhỏ sống phụ thuộc gia đình, không đi học mà chỉ ở nhà lao động sản xuất cùng gia đình. Năm 1984 kết hôn với chị Sùng Thị C và có 06 người con. Ngày 26/12/2018, bị cáo bị khởi tố về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội bị cáo đã khắc phục hậu quả nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, i, b khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Khi bị cáo biết được hành vi trộm cắp của K là vi phạm pháp luật, nhưng vì hám lợi, muốn có tiền một cách dễ dàng nên khi được Khua chia tiền mà bị cáo đã chấp nhận. Từ hành động của bị cáo, đã gây không ít những tâm lý hoang mang lo lắng trong nhân dân.

Hành vi của bị cáo thể hiện thái độ coi thường pháp luật, không có ý thức tôn trọng quyền về tài sản của người khác. Bởi vậy Hội đồng xét xử cần đưa ra mức án thật nghiêm khắc, để cải tạo giáo dục bị cáo; giúp bị cáo trở thành người tốt, người có ích cho gia đình và xã hội và cũng là cơ hội giúp bị cáo cai nghiện ma túy.

[4] Theo khoản 5 Điều 173 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và khoản 5 Điều 323 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định; các bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung bằng tiền. Tuy nhiên, xét điều kiện hoàn cảnh của các bị cáo khó khăn, các bị cáo đều thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo theo quy định của Chính phủ nên không có khả năng thi hành; vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[5] Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên mức hình phạt đối với bị cáo xử phạt bị cáo Lầu A K từ 09 tháng đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng và xử phạt bị cáo Giàng A N từ 09 tháng đến 12 tháng tù cho hưởng án treo; thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng; Hội đồng xét xử xét không chấp nhận cho các bị cáo được hưởng án treo bởi: Hành vi của các bị cáo cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc mới có tác dụng dăn đe phòng ngừa chung, nêu cao ý thức biết tôn trọng tài sản của người khác; đồng thời cũng là bài học cảnh tỉnh đối với những người khác đang có ý định xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ và cũng là giáo dục các bị cáo biết tôn trọng pháp luật.

[6] Tại phiên tòa, Vị bào chữa cho bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên mức hình phạt đối với bị cáo Giàng A N mức hình phạt thấp nhất và cho hưởng án treo; Hội đồng xét xử xét không chấp nhận cho bị cáo Nhù được hưởng án treo bởi: Hành vi của các bị cáo cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc mới có tác dụng dăn đe phòng ngừa chung, nêu cao ý thức biết tôn trọng tài sản của người khác; đồng thời cũng là bài học cảnh tỉnh đối với những người khác đang có ý định xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ và cũng là giáo dục các bị cáo biết tôn trọng pháp luật.

[8] Đối với phần bồi thường thiệt hại: Đối với bị cáo Lầu A K: Do K đã nhận số tiền 500.000đ của N để đi mua điện thoại, thẻ sim, thẻ nhớ cho N; số tiền mua hết 240.000đ; do đó cần buộc K phải bồi thường số tiền còn dư lại cho chị S số tiền là 260.000đ.

Đối với Giàng A N: Do tại phiên tòa chị Sú thỏa thuận nhận hai chiếc điện thoại kèm 01 thẻ sim, thẻ nhớ trừ đi số tiền còn phải bồi thường; nên cần buộc bị cáo N phải bồi thường tiếp cho chị S số tiền là 1.500.000đ (Một triệu năm nghìn đồng).

[9] Về vật chứng: Đối với số tiền giao nộp cho Cơ quan điều tra, cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại, việc trả lại tài sản là đúng theo quy định của Pháp luật.

Trả lại cho Lầu A K: 01 xe máy hiệu ESPERO loại 110BS màu đen biển kiểm soát 27Z1-078.76 số khung 165301, số máy 165301, 01 đăng ký xe mô tô mang tên Giàng A T, 01 chứng minh nhân dân số 051024791 mang tên Lầu A K, 01 giấy phép lái xe số 140147010033 mang tên Lầu A K, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm mô tô xe máy số 0570196, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HOTWAV màu đen viền màu cam đã qua sử dụng, 01 ví màu đen bên trong có 480.000đ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành vì không liên quan đến hành vi phạm tội.

Do các bên thỏa thuận nên cần trả cho chị Thào Thị S: 01 chiếc điện thoại di động nhãn SamSung màn hình cảm ứng đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu ITEL màu đen, viền trắng đã qua sử dụng, 01 thẻ sim, 01 thẻ nhớ.

Tịch thu tiêu hủy 01 đèn pin dạng đội đầu màu sáng có dây màu đen và 01 phong bì niêm phong chiếc điện thoại SamSung thu giữ của K.

[10] Về án phí: Theo quy định tại Điều 136 BLTTHS năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án các bị cáo đủ điều kiên miễn án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

[11] Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay các cáo không có ý kiến khiếu nại về các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng theo quy định của Pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s, i, b khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Lầu A K.

Áp dụng khoản 1 Điều 323, điểm s, i, b khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Giàng A N.

Áp dụng Điều 48 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 584; Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015 đối với bị cáo Giàng A N, Lầu A K về bồi thường thiệt hại.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1, điểm a, điểm a khoản 3 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án đối với các bị cáo; tuyên xử,

1. Tội danh:

Tuyên bố bị cáo Lầu A K phạm tội: Trộm cắp tài sản.

Tuyên bố bị cáo Giàng A N phạm tội: Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

2. Hình phạt:

Xử phạt bị cáo Lầu A K 07 (Bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/12/2018.

Xử phạt bị cáo Giàng A 07 (Bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/12/2018.

3. Phần bồi thường dân sự:

Buộc bị cáo Lầu A K phải bồi thường số tiền còn dư lại cho chị Thào Thị S số tiền là 260.000đ (Hai trăm sáu mươi nghìn đồng).

Buộc bị cáo Giàng A N phải bồi thường tiếp cho chị Thào Thị S số tiền là 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng).

4. Vật chứng vụ án:

Trả lại cho Lầu A K: 01 xe máy hiệu ESPERO loại 110BS màu đen biển kiểm soát 27Z1-078.76 số khung 165301, số máy 165301, 01 đăng ký xe mô tô mang tên Giàng A T, 01 chứng minh nhân dân số 051024791 mang tên Lầu A K, 01 giấy phép lái xe số 140147010033 mang tên Lầu A K, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm mô tô xe máy số 0570196, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HOTWAV màu đen, viền màu cam đã qua sử dụng, 01 ví màu đen bên trong có 480.000đ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành vì không liên quan đến hành vi phạm tội.

Trả cho chị Thào Thị S: 01 điện thoại SamSung màn hình cảm ứng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu ITEL màu đen, viền trắng đã qua sử dụng kèm 01 thẻ sim, 01 thẻ nhớ.

Tịch thu tiêu hủy 01 đèn pin dạng đội đầu màu sáng có dây màu đen và 01 phong bì dùng để niêm phong chiếc điện thoại SamSung thu giữ của K.

Đặc điểm vật chứng nói trên được ghi theo Phiếu nhập kho số: PNKVC35, ngày 28/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.

5. Án phí: Bị cáo Lầu A K và bị cáo Giàng A N được miễn án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo Lầu A K, Giàng A N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 26/3/2019); chị Thào Thị S có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án. Chị Giàng Thị P có quyền kháng cáo phần liên quan đến chị Pính trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2019/HS-ST ngày 26/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:14/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về