Bản án 14/2019/HSST ngày 25/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH – TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 14/2019/HSST NGÀY 25/03/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch,tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 11/2019/TLST – HS ngày ngày 04 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng D, sinh ngày 10/8/1988, tại Vĩnh PhúcNơi ĐKHK và cư trú: thôn Y, xã B, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; bố đẻ: Hoàng VT; mẹ đẻ: Phạm TL; vợ: Trần T; có 02 con lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/12/2018 cho đến nay, hiện đang tạm giam tại trại giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến:

1/ Chị Trần Thị H, sinh năm 1997 - Nơi cư trú: Thôn L, xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, vắng mặt;

2/ Anh Nguyễn VG, sinh năm 1994- Nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện L,tỉnh Vĩnh Phúc, vắng mặt;

3/ Anh Nguyễn TH, sinh năm 1994- Nơi cư trú: Khu 5, LL, xã Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dụng vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 50 phút ngày 25/12/2018, Hoàng D cùng Nguyễn VG, Nguyễn TH đang ngồi chơi tại phòng ngủ nhà riêng của D thì có Nguyễn V và Trần Thị H đến. Khi gặp, T đưa cho D số tiền 500.000đồng và hỏi mua ma túy đá của D. D đồng ý và cầm tiền cất vào trong người rồi lấy 01 gói ma túy đã để bán cho T, nhưng chưa kịp đưa ma túy cho T thì bị lực lượng phòng chống ma túy Công an tỉnh Vĩnh Phúc bắt quả tang và thu giữ vật chứng gồm: 02 túi nilon màu trắng bên trong chứa ma túy tại túi quần phải phía trước của D đang mặc (được niêm phong ký hiệu A1), 1.100.000đồng tại túi quần trái phía trước của D (trong đó D khai là có 500.000đồng là tiền bán ma túy cho Tiến mà có).

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở, đồ vật, tài sản của Hoàng D, thu giữ tại vị trí góc trên của cánh ngăn tủ lạnh kê ở gian ngoài sát cửa đi vào buồng ngủ của D 01 túi nilon bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng đá màu trắng (được niêm phong ký hiệu A2).

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc ra Quyết định trưng cầu giám định. Ngày 01/01/2019, Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Vĩnh Phúc có văn bản số 33/KLGĐ kết luận: Tinh thể dạng đá của các mẫu ký hiệu A1, A2 gửi giám định đề là ma túy, dạng Methamphetamine. Khối lượng của mẫu A1 gửi giám định là 0,4783g. Khối lượng của mẫu A2 gửi giám định là 1,0078g. Hoàn lại mẫu vật sau giám định là A1 = 0,3399g; A2 = 0,8388g cùng toàn bộ bao gói.

Trong quá trình điều tra, Hoàng D khai nhận nguồn gốc ma túy đá Cơ quan công an thu giữ có được là do D mua vào buổi sáng ngày 25/12/2018 của một người đàn ông tự giới thiệu tên là V, người Hà Nội tại khu vực đầu đường 36 thuộc xã Đồng Tĩnh, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc với giá 1.000.000đồng. Sau đó D đem số ma túy đá mua được về nhà chia nhỏ để dùng và bán cho các đối tượng nghiện ma túy nhằm kiếm lời. Bản thân D không xác định được cụ thể địa chỉ, họ tên, nhân thân, lý lịch của đối tượng bán ma túy đã cho mình.

Tại bản cáo trạng số: 14/KSĐT-MT ngày 01 tháng 3 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch truy tố Hoàng D về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch luận tội đối với bị cáo Hoàng D, giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Sau khi đánh giḠtính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố bị cáo Hoàng D phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”; áp dụng Khoản 1 Điều 251; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 30 tháng tù đến 36 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam; không áp dụng hình phạt bổ sung và đề nghị xử lý vật chứng vụ án, bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là sai trái, bị cáo rất hối hận và đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lập Thạch, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo Hoàng D đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, biên bản phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 18 giờ 50 phút ngày 25/12/2018, tại nhà của mình ở thôn Y, xã B, Hoàng D đã có hành vi bán 01 gói ma túy đá (Methamphetamine) cho đối tượng tự khai là Nguyễn V với giá 500.000đồng thì bị tổ công tác của Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện, bắt quả và thu giữ vật chứng gồm: 02 túi nilon màu trắng bên trong chứa ma túy đá Methamphetamine khối lượng = 0,4783g. Khám xét khẩn cấp nơi ở, đồ vật của D Cơ quan điều tra thu giữ 01 túi nilon bên trong có chứa ma túy đá Methamphetamine có khối lượng = 1,0078g.

Hành vi nêu trên của Hoàng D đã phạm vào tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Điều luật quy định: “ Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là táo bạo, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây dư luận xấu trong nhân dân. Mặc dù các hành vi liên quan đến ma tuý, tác hại của ma túy đối với sức khỏe của con người đã được tuyên truyền giáo dục nhiều, song các tội phạm về ma túy cũng chưa giảm, diễn biến phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn. Vì vậy, phải đưa ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật và có hình phạt tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, như vậy mới có tác dụng cải tạo giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[3] Về áp dụng hình phạt bổ sung: theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Qua xem xét điều kiện, hoàn cảnh của bị cáo D thấy rằng: bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản có giá trị lớn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với Nguyễn V là người mua ma túy đá của D: Sau khi bị bắt giữ, làm việc với Cơ quan điều tra, lợi dụng sơ hở T đã bỏ trốn, Cơ quan điều tra đã truy tìm và xác minh tại thôn Đại Lương, xã Thái Hòa, huyện Lập Thạch nhưng không có thông tin về Nguyễn V có nhân thân, lý lịch, địa chỉ như T khai báo nên Cơ quan điều tra không triệu tập được T để làm rõ. Do vậy, cần tách ra khi nào Cơ quan điều tra triệu tập được T và làm rõ thì xử lý sau.

Đối với Trần Thị H là người sử dụng xe máy của mình đưa Nguyễn V tới nhà D để mua ma túy, quá trình điều tra xác định H mới quen biết T khoảng 01 tuần. Ngày 25/12/2018, T rủ H đến nhà bạn chơi, H không biết việc T tới nhà D là để mua ma túy, không tham gia vào việc mua bán ma túy giữa D và T nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

Đối với Nguyễn VG, Nguyễn TH là những người có mặt khi D và T mua bán ma túy, quá trình điều tra xác định được VG và TH không tham gia vào việc mua bán ma túy giữa D và Tnên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

Đối với người bán ma túy cho D, do D không xác định được rõ họ tên, nhân thân, lý lịch, địa chỉ của đối tượng bán ma túy cho mình nên cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh, làm rõ để xử lý là phù hợp.

[4] Về xử lý vật chứng:

Số tiền 1.100.000đồng thu của D, trong đó có 500.000đ là tiền D bán ma túy cho T mà có nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước, còn số tiền 600.000đồng xác định là tài sản riêng, hợp pháp của D và không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho D nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Số ma túy thu giữ còn lại sau giám định là A1 = 0,3399g; A2 = 0,8388g cùng toàn bộ bao gói mẫu vật hoàn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: Bị cáo Hoàng D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 251, Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Hoàng D 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 25/12/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự

Tịch thu, tiêu hủy số ma túy thu giữ còn lại sau giám định A1 = 0,3399g; A2 = 0,8388g cùng toàn bộ bao gói mẫu vật hoàn lại sau giám định

Tịch thu, sung quỹ Nhà nước 500.000đồng là tiền D bán ma túy cho Tiến mà có.

Trả lại cho bị cáo số tiền 600.000đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Toàn bộ vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 04 tháng 3 năm 2019).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Hoàng D phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2019/HSST ngày 25/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:14/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về