TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 14/2019/HS-ST NGÀY 25/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Hôm nay, ngày 25/02/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 26/2019/HSST ngày 31/01/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Kiều X Đ, tên gọi khác: L, sinh năm 1994, Trú tại: Xã H, huyện Ứng Hòa, Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Văn hoá: 9/12; Con ông: Kiều V Đ và bà: Kiều Thị L. Theo danh chỉ bản số 000000468 lập ngày 20/11/2018 tại Công an quận Cầu Giấy và lý lịch địa V P cung cấp thì bị cáo có 01 tiền án:
Bản án số 03/2013/HSST ngày 29/01/2013, Tòa án nhân dân huyện Đ, Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ra trại ngày: 22/12/2014 (đã xóa).
Bị cáo bị bắt truy nã và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/11/2018 tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: Nguyễn V T, sinh năm: 1990, HKTT: Xã D T, TP Bắc Giang, Bắc Giang, vắng mặt tại phiên tòa.
- Anh Vương T N, sinh năm: 1984, HKTT: phường T T, Hà Nội, vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 9h sáng ngày 18/4/2018, Kiều X Đ đến sửa tường tại Căn hộ X, tòa nhà C V Phường H, quận Cầu Giấy, Hà Nội của Nguyễn V T, phòng chưa có người ở và đang trong thời gian lắp đặt các thiết bị điện tử. Khi đến X Đ thấy chìa khóa cửa nhà tại bàn bếp nên đã lấy ra ngoài đánh thêm một chìa khác mục đích để trộm cắp tài sản. Sau đó X Đ quay lại Căn hộ X trả chìa khóa vào chỗ cũ. Khoảng 19h30 cùng ngày, X Đ gọi điện thoại cho Kiều V P và Trần N T (tức E) bảo đến nhà trọ của X Đ tại Phường Đ, Hoàng Mai, Hà Nội chở đồ giúp X Đ. Khi T đến, X Đ bảo T “đi lên đây lấy đồ hộ tao”, T đồng ý và đi bộ cùng X Đ ra đầu ngõ Đ C T chờ V P. V P đi ôtô Huyndai i10 màu trắng, BKS: 30E - xxxxx đến đầu ngõ Đ C T gặp T và X Đ đang đứng chờ. T và X Đ lên ô tô của V P, X Đ bảo V P chở đến tòa nhà C V Phường H, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Khi đi đến nơi X Đ bảo V P đi xuống tầng hầm B1 và bảo V P “mày đứng ở đây đợi còn tao và X Đ lên lấy đồ”. X Đ và T đi thang bộ lên tầng 20. Sau đó, X Đ dùng chìa khóa chuẩn bị từ trước mở cửa Căn hộ X. X Đ đi vào và T đi theo sau. Khi vào trong nhà X Đ bảo T dùng đèn điện thoại chiếu sáng chứ không bật điện, lúc này T biết là X Đ bảo T đi trộm cắp tài sản nhưng do lòng tham nên T đồng ý. X Đ đưa điện thoại cho T soi để X Đ sử dụng bộ dụng cụ mang theo gồm 01 tô vít; 01 cà lê; 01 mỏ lết cùng một số dũng cụ có sẵn ở đó để tháo đồ đạc trong phòng. X Đ và T đã tháo được 01 máy lọc nước RO 7 lõi, 01 bếp từ nhãn hiệu Boss, 01 máy hút mùi nhãn hiệu Cata màu E. Tháo xong, X Đ và T cho các tài sản trộm cắp được vào 02 thùng cát tông (có sẵn trong phòng) rồi cả hai bê xuống sảnh tầng 1. X Đ đi xuống hầm bảo V P cho ô tô lên sảnh. Khi lên đến sảnh V P thấy T và hai thùng cát tông để đồ, X Đ mở cốp xe rồi cùng T cho hai thùng cát tông vào xe. V P chở X Đ và T cùng đồ trộm cắp được về nhà trọ của X Đ. Trên đường đi về V P hỏi X Đ là đồ gì thì X Đ nói “Đồ lấy của nhà dân”. X Đ bảo với V P và T là “ở đấy còn bình nóng lạnh nếu lấy được thì cho mỗi đứa một cái”. Sau khi đưa đồ về nhà X Đ cất, V P lại đưa X Đ và T tiếp tục quay lại Tòa nhà C V để tiếp tục trộm cắp. Khi đi đến X Đ bảo V P cùng X Đ và T đi bộ lên tầng 20 để trộm cắp, V P đồng ý. Khi lên đến tầng 20, X Đ mở cửa căn hộ số X cùng V P và T vào trong. Lúc đó dưới sàn nhà có một số máy khoan và máy cắt phục vụ cho việc lắp đặt thiết bị điện tử, X Đ bảo V P lấy toàn bộ số máy trên mang xuống xe ôtô trước, bao gồm: 01 chiếc máy nén khí Trung Quốc; 01 chiếc khoan bê tông nhãn hiệu FFA; 01 chiếc máy cắt tay nhãn hiệu Matec; 01 chiếc máy cắt tay nhãn hiệu Makitta; 01 chiếc khoan bắt vít nhãn hiệu Matec; 01 chiếc bào gỗ nhãn hiệu Bot và 01 chiếc súng bắn bê tông của anh Vương T N được thuê lắp thiết bị cho căn hộ của mình. Do một mình V P không mang hết được số máy trên xuống nên T cùng V P mang xuống. Khi cả hai quay lên X Đ đã tháo xong ống nước của hai chiếc bình nóng lạnh nên V P cầm đèn soi cho X Đ và T đưa hai bình nóng lạnh xuống. Sau đó, X Đ đi ra cửa của căn hộ và bảo T đưa cho 01 tuốc lơ vít và X Đ đã tháo 01 nửa mặt chuông cửa hình tròn nhãn hiệu Huyndai Telecom cho vào túi đeo bên người. X Đ và T buộc một bình nóng lạnh cho V P đeo ở lưng còn một bình nóng lạnh V P dùng tay bê ở trước ngực rồi đi bộ xuống tầng hầm B1, cất vào xe ô tô. T và X Đ bê 01 máy giặt Elextrolux màu trắng ra thang bộ nhưng do nặng không bê xuống được nên X Đ bảo T xuống gọi V P lên. Khi V P và T đi lên đến tầng 20 thì thấy X Đ đứng ở ngoài hành lang cùng với 01 chiếc máy giặt Elextrolux, V P đưa chìa khóa ô tô cho X Đ đi bộ xuống trước do X Đ sợ đi thang máy sẽ có người nhận ra còn V P và T bê chiếc máy giặt Elextrolux vào trong thang máy rồi đi xuống tầng hầm B3. Tới nơi V P và T bê máy giặt ra tầng hầm rồi sau đó V P đi lên tầng hầm B1 và bảo X Đ đi xuống tầng hầm B3 và cả ba cùng khênh máy giặt vào ghế sau của ô tô, V P lên lái xe đi về nhà X Đ. Khi về đến nhà, X Đ chia cho V P và T mỗi người một bình nóng lạnh rồi nói những tài sản còn lại sẽ chia sau.
Ngày 19/4/2018, Nguyễn V T đến căn hộ số X thì phát hiện bị mất trộm nên đã đến cơ quan Công an để trình báo.
Ngày 20/4/2018, Cơ quan Công an đã triệu tập Kiều V P lên để làm việc. Tại cơ quan Công an, V P đã khai nhận hành vi phạm tội nêu trên, V P khai: V P biết X Đ và T lên trộm cắp tài sản của nhà dân nhưng do X Đ là anh họ của V P nhờ và sẽ được hưởng lợi nên V P đồng ý chở hàng. V P tự nguyện giao nộp chiếc Bình nóng lạnh Ariston thể tích 30l màu trắng trộm cắp được.
Ngày 21/4/2018, Trần N T lên Công an phường H để đầu thú. Tại cơ quan công an T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của T phù hợp với lời khai của V P, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Cơ quan công an thu giữ của T 01 bình nóng lạnh nhãn hiệu Ariston 20 lít.
Quá trình điều tra cơ quan Công an đã tiến hành dẫn giải V P và T đến nhà trọ của Kiều X Đ tại Ngõ Đ C T- Hoàng Mai - Hà Nội. Mẹ của X Đ là bà Kiều Thị L đã giao nộp toàn bộ tài sản gồm: 01 chiếc máy giặt Elextrolux màu trắng; 01 máy hút mùi nhãn hiệu cata màu E; 01 chiếc bếp từ nhãn hiệu Boss; 01 máy lọc nước RO; 01 chiếc máy nén khí Trung Quốc; 01 chiếc khoan bê tông nhãn hiệu FFA; 01 chiếc máy cắt tay nhãn hiệu Matec; 01 chiếc máy cắt tay nhãn hiệu Makitta; 01 chiếc khoan bắt vít nhãn hiệu Matec; 01 chiếc bào gỗ nhãn hiệu Bot; 01 súng bắn bê tông; 01 nửa mặt chuông hình tròn nhãn hiệu Huyndai Telecom là tài sản X Đ cùng đồng bọn trộm cắp và cất giấu tại nhà.
Theo Kết luận định giá số 115, 116 ngày 20/4/2018 và Kết luận định giá tài sản số 176 ngày 24/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Cầu Giấy thì:
- 01 chiếc máy giặt Elextrolux màu trắng trị giá: 15.500.000 đồng;
- 01 chiếc máy hút mùi nhãn hiệu cata màu E trị giá: 4.800.000 đồng;
- 01 chiếc bếp từ nhãn hiệu Boss trị giá 13.200.000 đồng;
- 01 bình nóng lạnh nhãn hiêu Ariston 30 lít trị giá 3.350.000 đồng;
- 01 bình nóng lạnh nhãn hiệu Ariston 20 lít trị giá 2.850.000 đồng;
- 01 máy lọc nước RO7 lõi trị giá 2.800.000 đồng;
- 01 chiếc máy nén khí Trung Quốc trị giá 1.140.000 đồng;
- 01 chiếc khoan bê tông nhãn hiệu FFA trị giá 624.000 đồng;
- 01 chiếc máy cắt tay nhãn hiệu Matec trị giá 1.123.000 đồng;
- 01 chiếc máy cắt tay nhãn hiệu Makitta trị giá 519.000 đồng;
- 01 chiếc khoan bắt vít nhãn hiệu Matec trị giá 250.000 đồng;
- 01 chiếc bào gỗ nhãn hiệu Bot trị giá 1.039.000 đồng;
- 01 chiếc súng bắn bê tông trị giá 309.000 đồng.
- 01 nửa mặt chuông hình tròn nhãn hiệu Huyndai Telecom trị giá 1.125.000 đồng.
Tổng trị giá tài sản mà X Đ, V P và T trộm cắp của các bị hại là 48.629.00 đồng.
Ngày 03/5/2018 và ngày 27/5/2018 Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại toàn bộ tài sản cho các bị hại là Nguyễn V T và anh Vương T N. anh Nguyễn V T và anh Vương T N đã nhận lại toàn bộ tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự.
Đối với bà Kiều Thị L, quá trình điều tra xác định việc Kiều Văn X Đ cùng Kiều V P và Trần N T trộm cắp số tài sản trên mang về nhà bà cất giấu bà Lệ không biết.
Quá trình điều tra, Cơ quan Công an đã tiến hành triệu tập Kiều X Đ lên để làm việc nhưng X Đ đã bỏ trốn khỏi địa V P. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Cầu Giấy đã ra quyết định khởi tố bị can đối với Kiều X Đ và ra quyết định truy nã đối với X Đ. Ngày 03/9/2018, Cơ quan điều tra ra tách phần tài liệu và ra quyết định tạm đình chỉ điều tra đối với bị can Kiều X Đ.
Ngày 29/10/2018, Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy xử phạt Kiều V P và Trần N T 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 48 tháng về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 230/2018/HSST.
Ngày 19/11/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Cầu Giấy bắt được X Đ. Quá trình bắt giữ, Cơ quan điều tra đã thu giữ của X Đ: 01 ô tô hiệu Huyndai I10, BKS: 30A - xxxxx, SK: 182xxx, SM: 225xxx.
Tại cơ quan điều tra, Kiều X Đ đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lời khai của X Đ phù hợp với lời khai của Kiều V P, Trần N T, phù hợp với lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cùng các tài liệu chứng khác có trong hồ sơ vụ án.
Đối với 01 ô tô hiệu Huyndai I10, BKS: 30A - xxxxx, SK: 182xxx, SM: 225xxx thu giữ của Kiều X Đ, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của Công ty N S. Công ty giao ô tô cho X Đ để kinh doanh T Nhưng không biết việc X Đ đang bị truy nã nên Cơ quan điều tra đã trả lại ô tô cho Công ty. Công ty đã ủy quyền cho anh Đỗ V H - sinh năm: 1982 (HKTT: Phường T, Gia Lâm, Hà Nội) nhận lại tài sản. Sau khi nhận lại tài sản, ông Hướng không có ý kiến gì.
Tại bản cáo trạng số 36/CT-VKSCG ngày 30/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy đã truy tố Kiều X Đ về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;
Áp dụng: Điều 55; Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật án phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Đề nghị xử phạt bị cáo Kiều X Đ từ 28 tháng đến 32 tháng tù.
Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.
Bị cáo nhất trí với bản Cáo trạng và Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy. Bị cáo nhận thức và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của bị cáo để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Cầu Giấy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, biên bản bắt người đang bị truy nã, Kết luận định giá số 115, 116 ngày 20/4/2018 và Kết luận định giá tài sản số 176 ngày 24/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Cầu Giấy, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Ngày 18/4/2018, tại Căn hộ X tòa nhà C V, Cầu Giấy, Hà Nội, Kiều X Đ, Kiều V P và Trần N T đã có hành vi trộm cắp của Nguyễn V T: 01 chiếc máy giặt Elextrolux màu trắng, 01 chiếc máy hút mùi nhãn hiệu cata màu E, 01 chiếc bếp từ nhãn hiệu Boss, 01 bình nóng lạnh nhãn hiệu Ariston 30 lít, 01 bình nóng lạnh nhãn hiệu Ariston 20 lít, 01 máy lọc nước RO7 lõi và 01 nửa mặt chuông hình tròn nhãn hiệu Huyndai Telecom; của anh Vương T N: 01 chiếc máy nén khí Trung Quốc, 01 chiếc khoan bê tông nhãn hiệu FFA, 01 chiếc máy cắt tay nhãn hiệu Matec, 01 chiếc máy cắt tay nhãn hiệu Makitta, 01 chiếc khoan bắt vít nhãn hiệu Matec, 01 chiếc bào gỗ nhãn hiệu Bot và 01 chiếc súng bắn bê tông tại căn hộ số X tòa nhà C V Phường H, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Tổng trị giá tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt là 48.629.000 đồng. Cơ quan điều tra đã trả tài sản cho anh Nguyễn V T và anh T N, hai anh không yêu cầu bồi thường gì. Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy đã xử phạt Kiều V P và Trần N T về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 230/2018/HSST ngày 29/10/2018. Hành vi của bị cáo X Đ đã phạm tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm đối với xã hội bởi lẽ đã xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người khác được pháp luật và Nhà nước bảo vệ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn trong thành phố, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bị cáo còn trẻ nhưng không chịu tu chí làm ăn mà lợi dụng sự sơ hở của mọi người xung quanh để trộm cắp. Hành vi phạm tội của bị cáo còn làm mất trật tự trị an trên địa bàn nơi xảy ra tội phạm, xét về vai trò, bị cáo X Đ là người khởi xướng ra hành vi phạm tội, rủ rê những người khác cùng thực hiện hành vi phạm tội nên đối với bị cáo X Đ cần phải xử lý thật nghiêm khắc bắt bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian nhất định để giáo dục ý thức chấp hành pháp luật và phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy tuy đã được xóa, nay lại phạm tội trộm cắp do cố ý nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học do vậy khi quyết định hình phạt cần tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
Trong quá trình truy tố, xét xử, hội đồng xét xử xem xét, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm cho bị cáo một phần hình phạt.
Theo quy định của pháp luật, bị cáo Trộm cắp tài sản ngoài hình phạt chính còn có thể áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự trong vụ án: Người bị hại anh Vương T N và Nguyễn V T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu về dân sự nên không đặt ra xem xét.
[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo và người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên !
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 173, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
Áp dụng khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333, Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo Kiều X Đ phạm tội Trộm cắp tài sản.
Xử phạt Kiều X Đ - 32 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/11/2018. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Những người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án, hoặc bản án được niêm yết công khai./.
Bản án 14/2019/HS-ST ngày 25/02/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 14/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/02/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về