Bản án 14/2019/HS-ST ngày 18/04/2019 về tội buôn bán hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯƠNG KHÊ, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 14/2019/HS-ST NGÀY 18/04/2019 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 18 tháng 4 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 06/2019/TLST-HS ngày 18/02/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2019/QĐXXST-HS ngày 03/4/2019 đối với các bị cáo:

1. Đinh Xuân A; sinh ngày 05/5/1993; nơi sinh: Xã H, huyện T, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: Xóm X, xã H, huyện T, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Hữu G và bà Cao Thị K; có vợ là Đinh Thị Hồng S và 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/12/2018 đến ngày 23/01/2019; hiện được tại ngoại; có mặt.

2. Hoàng Mạnh T; sinh ngày 05/5/1990; nơi sinh: Xã H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Xóm Y, xã H, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Mạnh T và bà Trần Thị T; có vợ là Nguyễn Thị T và 01 con sinh năm 2015; bị bắt tạm giữ từ ngày 20/12/2018 đến ngày 23/12/2108; hiện được tại ngoại; có mặt.

3. Lê Quốc K; sinh ngày 02/9/1986; nơi sinh: Xã H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Xóm L, xã H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Làm ruộng; chính trị: Đảng viên, Phó Bí thư Đoàn xã H; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Khánh D và bà Bạch Thị T; có vợ là Lưu Thị Thùy T và 01 đứa con sinh năm 2011; bị bắt tạm giữ từ ngày 20/12/2018 đến ngày 23/12/2018; hiện được tại ngoại; có mặt.

 - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

 Anh Lê Xuân T, sinh năm 1988; Địa chỉ: Tiểu khu 5, tổ dân phố H, phường S, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.

 - Người chứng kiến:

 Chị Định Thị Hồng S, sinh năm 1992; Địa chỉ: Xóm X, xã H, huyện T, tỉnh Quảng Bình; có mặt.

 Anh Nguyễn Văn H; Bà Lê Thị T; Đều có địa chỉ: Xóm B, xã B, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

 Vào khoảng 22 giờ 25 phút ngày 20/12/2018 Tổ công tác Công an huyện Hương Khê phối hợp Công an xã B tiến hành tuần tra đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn, phát hiện chiếc xe ô tô màu đen, hãng Daewoo Laceti, biển kiểm soát 38N-4474 chạy từ hướng xã L đi xã H có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra trên xe ô tô phát hiện, bắt quả tang Lê Quốc K và Hoàng Mạnh T đang có hành vi vận chuyển 13 hộp pháo để trong túi nilon màu đen trên hàng ghế sau của xe ô tô. Các đối tượng khai nhận số pháo trên mua của Đinh Xuân A, sinh năm 1993, trú tại xóm X, xã H, huyện T, tỉnh Quảng Bình.

 Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa Hoàng Mạnh T, Lê Quốc K và Đinh Xuân A, khai nhận: Ngày 17/12/2018 Đinh Xuân A đi xe ô tô khách đến khu vực tập kết hàng hóa Bãi D ở xã D, huyện M, tỉnh Quảng Bình tìm mua pháo. Khi đến, A hỏi một số người dân địa phương mua pháo thì được giới thiệu một người đàn ông lạ mặt, làm nghề bán thuốc lá dạo. Sau đó, Đinh Xuân A đã đặt mua từ người đàn ông này 46 hộp pháo, với giá 250.000đ/01 hộp, tổng tiền mua pháo là 11.500.000đ. Sau khi thỏa thuận, A đứng chờ ở khu vực Bải D, người đàn ông lạ mặt đi bộ vào khu dân cư gần đó lấy rồi đưa ra cho A 46 hộp pháo, đựng trong 02 thùng giấy cát tông. Đinh Xuân A bắt xe khách và đưa số pháo trên về nhà cất giấu để tiêu thụ. Đến ngày 20/12/2018, Hoàng Mạnh T gọi điện thoại cho Đinh Xuân A đặt mua 13 hộp pháo với giá 600.000đ/01 hộp, A đồng ý và hẹn gặp T tại khu vực xóm 4, xã H, huyện T, tỉnh Quảng Bình để giao dịch. Khoảng 20h30’ cùng ngày, Hoàng Mạnh T thuê Lê Quốc K điều khiển xe ô tô Laceti màu đen, biển kiểm soát 38N-4474 đi đến điểm hẹn để mua pháo. Khi đến, Hoàng Mạnh T xuống xe giao dịch, sau khi trao đổi, thỏa thuận xong, T vào ngồi trong xe ô tô, Đinh Xuân A lấy 13 hộp pháo, đựng trong 01 túi ni lông trong suốt và 01 bao xác rắn, mở cửa sau của xe để vào trong 01 túi ni lông màu đen có sẵn trên hàng ghế sau của xe ô tô. Hoàng Mạnh T đưa cho Đinh Xuân A 6.000.000đ, số tiền còn thiếu là 1.800.000đ T trả sau. Lê Quốc K ngồi trên xe quan sát được diễn biến quá trình mua bán pháo giữa T và A. Sau khi mua pháo, Lê Quốc K điều khiển xe ô tô chở T cùng số pháo trên đưa về xã H, huyện H cất giấu để sử dụng. Trên đường đi, khi đến địa phận xóm L, xã T, huyện Hương Khê, T đã trao đổi cho K biết rõ về số lượng, giá cả trong việc mua bán pháo nói trên. Vào lúc 22h55’ cùng ngày, khi K và T đang đi trên đường liên xã Long Bình thuộc địa phận xóm B, xã H thì bị Tổ công tác Công an huyện Hương Khê phối hợp với Công an xa H phát hiện, bắt quả tang, thu giữ 13 hộp pháo trên. Mở rộng điều tra, Cơ quan điều tra tiến hành triệu tập Đinh Xuân A để làm việc, A đã tự nguyện giao nộp 33 hộp pháo còn lại đang cất giữ ở nhà chờ tiêu thụ.

 Tại các Kết luận giám định số 40/GĐP-PC09 ngày 23/12/2018 và số 50/GĐP-PC09 ngày 23/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh xác định 13 hộp pháo mà Hoàng Mạnh T cùng Lê Quốc K vận chuyển có tổng khối lượng là 15,4kg và 33 hộp pháo do Đinh Xuân A giao nộp có khối lượng là 49,2kg là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ).

 Vật chứng thu giữ:

13 khối hộp có ký hiệu KR5-B363, kích thước mỗi hộp 14x14x12cm, trong mỗi hộp có 36 vật hình trụ, có khối lượng là 15,4kg, đã lấy 0,06kg để giám định, hiện còn lại 15,34kg (thu của Hoàng Mạnh T và Lê Quốc K vận chuyển).

24 khối hộp có ký hiệu KR5-B362, kích thước mỗi hộp 14,5x14,5x12,5cm, trong mỗi hộp có 36 vật hình trụ, có khối lượng là 38,6kg, đã lấy 0,1kg để giám định, hiện còn lại 38,5kg; 09 khối hộp có ký hiệu KR5-B363, kích thưóc mỗi hộp 14,5x14,5x12,5cm, trong mỗi hộp có 36 vật hình trụ, có khối lượng là 10,6kg, đã lấy 0,06kg để giám định, hiện còn lại 10,54kg; 01 điện thoại Samsung J2; 6.000.000đ (do Đinh Xuân A giao nộp). 01 điện thoại Nokia 105 màu đen, xanh (thu của Hoàng Mạnh T). Toàn bộ vật chứng trên đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hương Khê quản lý.

 01 xe ô tô 04 chỗ hàng Deawoo Lacitti màu đen, BKS 38N-4474 Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu.

 Tại Cáo trạng số 06/CT-VKSHK ngày 14/02/2019 của Viện trưởng VKSND huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Đinh Xuân A về tội Buôn bán hàng cấm theo điểm g khoản 2 Điều 190 Bộ luật Hình sự; bị cáo Hoàng Mạnh T, Lê Quốc K về tội Vận chuyển hàng cấm theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

 Tại phiên tòa:

 Các bị cáo Đinh Xuân A, Hoàng Mạnh T, Lê Quốc K khai nhận hành vi của mình như nội dung trên. Các bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng của các bị cáo, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo có điều kiện được cải tạo tại địa phương.

 Đại diện Viện kiểm sát huyện Hương Khê tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đinh Xuân A về tội Buôn bán hàng cấm; bị cáo Hoàng Mạnh T và Lê Quốc K về tội Vận chuyển hàng cấm. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với Đinh Xuân A xử phạt bị cáo từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng tù; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Mạnh T từ 12 đến 15 tháng tù và Lê Quốc K từ 09 đến 12 tháng tù nhưng đều cho hưởng án treo; đề nghị xử lý vật chứng và buộc các bị cáo chịu án phí theo quy định.

 NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Tại phiên tòa, các bị cáo tự nguyện khai nhận hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận tội của các bị cáo với tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa là phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Vào ngày 17/12/2018 Đinh Xuân A có hành vi mua 46 hộp pháo của một người đàn ông không quen biết tại bãi tập kết hàng hóa ở Bãi D thuộc xã D, huyện M, tỉnh Quảng Bình có khối lượng là 64,6kg với số tiền 11.500.000đ, rồi đưa về nhà cất giấu với mục đích để bán kiếm lời. Ngày 20/12/2018, Hoàng Mạnh T thuê Lê Quốc K lái xe ô tô đến khu vực xóm 4, xã Hương Hóa, huyện Tuyên Hóa để mua của Đinh Xuân A 13 hộp pháo có khối lượng 15,4kg về sử dụng trong dịp tết Nguyên đán. Khoảng 22h25’ khi K, T vận chuyển về đến địa phận xóm B, xã H thì bị lực lượng công an phát hiện bắt quả tang. Tại các Kết luận giám định xác định tổng khối lượng 64,6kg là pháo, đều có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ).

 [3] Như vậy Đinh Xuân A có hành vi mua 46 hộp pháo có khối lượng là 64,6kg với mục đích để bán kiếm lời, do đó đã phạm vào Tội buôn bán hàng cấm thuộc trường hợp “Pháo nổ từ 40 kilogam đến dưới 120 kilogam” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 190 Bộ luật Hình sự. Lê Quốc K chở Hoàng Mạnh T đến mua của Đinh Xuân A 13 hộp pháo có khối lượng 15,4kg với mục đích về sử dụng và trên đường vận chuyển về thì bị bắt quả tang, do đó hành vi của Lê Quốc K, Hoàng Mạnh T đã phạm vào Tội vận chuyển hàng cấm thuộc trường hợp “Pháo nổ từ 06 kilogam đến dưới 40 kilogam” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng số 06/CT-VKSHK truy tố bị cáo Đinh Xuân A, Hoàng Mạnh T và Lê Quốc K là có căn cứ, đúng pháp luật.

 [4] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh hàng cấm, ảnh hưởng đến tình hình trật tự tại địa phương. Do đó, cần phải xử lý nghiêm mới đảm bảo tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

 [5] Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đối với Hoàng Mạnh T và Lê Quốc K được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo Hoàng Mạnh T, Lê Quốc K đều có thời gian hoàn thành nghĩa vụ quân sự; Đinh Xuân A đã tự nguyện giao nộp số pháo còn cất giữ và số tiền do phạm tội mà có, hoàn cảnh gia đình hiện tại rất khó khăn; Lê Quốc K trong thời gian làm công tác đoàn tại địa phương được tặng nhiều giấy khen và chính quyền địa phương có văn bản đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, do đó các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ khác quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

 [6] Đối với Đinh Xuân A là người mua pháo về bán để kiếm lời, với số lượng pháo lớn, thuộc loại tội rất nghiêm trọng, giữ vai trò chính, do đó cần phải xử phạt tù và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian. Tuy nhiên, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, trong khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, do đó cần áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo hình phạt tù dưới mức thấp nhất của khung hình phạt áp dụng để bị cáo an tâm, cải tạo giáo dục sớm trở về hòa nhập cộng đồng xã hội. Đối với Hoàng Mạnh T, Lê Quốc K là người mua pháo về với mục đích để sử dụng, trong đó bị cáo T là người trực tiếp mua pháo, còn bị cáo K đồng phạm giúp sức chở pháo giữ vai trò thứ yếu trong vụ án, do đó cần xử phạt bị cáo K mức hình phạt thấp hơn bị cáo T.

 Xét bị cáo Hoàng Mạnh T và Lê Quốc K có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng… do đó, không cần thiết phải cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội mà cần áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo được hưởng án treo để các bị cáo có điều kiện cải tạo, giáo dục tại địa phương làm lại cuộc đời là phù hợp.

 [7] Về xử lý vật chứng: 46 hộp pháo tổng khối lượng 64,38kg (đã trừ các mẫu giám định) là vật chứng cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động Samsung J2 màu hồng và 01 điện thoại Nokia 105 màu đen các bị cáo dùng liên lạc phạm tội cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Số tiền 6.000.000đ do bị cáo Đinh Xuân A giao nộp là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước theo điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự.

 Đi với chiếc xe ô tô 04 chỗ nhãn hiệu Daewoo Lacetti, màu đen, BKS 38N-4474 bị cáo Lê Quốc K dùng chở pháo là của anh Lê Xuân T, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ quản lý hợp pháp nên miễn xét.

 [8] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, đề nghị về hình phạt, biện pháp đường lối xét xử, xử lý vật chứng, án phí là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [9] Bị cáo Đình Xuân A khai mua 46 hộp pháo của một người đàn ông không quen biết tại khu vực tập kết hoàng hóa ở bãi D thuộc xã D, huyện M, tỉnh Quảng Bình, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không xác định được tên tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.

 [10] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Đinh Xuân A. Điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hoàng Mạnh T và Lê Quốc K. Điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

 1. Về tội danh:

 Tuyên bố bị cáo Đinh Xuân A phạm tội Buôn bán hàng cấm.

 Tuyên bố bị cáo Hoàng Mạnh T, Lê Quốc K phạm tội Vận chuyển hàng cấm.

 2. Về hình phạt:

 - Xử phạt bị cáo Đinh Xuân Anh 42 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án. Bị cáo được trừ thời gian tạm giam từ ngày 23/12/2018 đến ngày 23/01/2019.

 - Xử phạt bị cáo Hoàng Mạnh T 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

 - Xử phạt bị cáo Lê Quốc K 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thừi gian thử thách là 18 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

 Giao bị cáo Hoàng Mạnh T, Lê Quốc K cho Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách án treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

 Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

 3. Về xử lý vật chứng:

 Tch thu tiêu hủy 46 hộp pháo có tổng khối lượng 64,38kg; tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động Samsung J2 màu hồng, 01 chiếc điện thoại Nokia 105 màu đen (Tình trạng, đặc điểm theo Biên bản nhận nhận vật chứng, tài sản ngày 29/01/2019 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Hương Khê và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hương Khê).

 Tch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 6.000.000đ (Theo biên lai thu tiền số 005887 ngày 29/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Hương Khê).

 4. Về án phí: Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

 5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

425
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2019/HS-ST ngày 18/04/2019 về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:14/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hương Khê - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về