TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO YÊN - TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 14/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai, Tòa án nhân dân huyện Bảo Yên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 105/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1984;
Trú tại: Bản M, xã Xuân Hòa , huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai - có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Bị đơn: anh Hoàng Văn D , sinh năm 1981;
Trú tại: Bản M, xã Xuân Hòa , huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai - có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Đơn khởi kiện, tự khai của chị Nguyễn Thị H có nội dung như sau:
Chị Nguyễn Thị H và anh Hoàng Văn D đăng ký kết hôn ngày 01 tháng 01 năm 2004, tại UBND xã Xuân Hòa, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai, sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc được 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn, do anh D thường đi chơi bời bên ngoài xã hội, sau đó về đánh đập chửi bới chị H. Từ năm 2014 đến nay mâu thuẫn vợ chồng thường xuyên diễn ra. Chị H đã mời tổ hòa giải và Công an xã Xuân Hòa đến giải quyết, sau khi hòa giải anh D hứa sẽ sửa chữa nhưng sau đó anh D vẫn tiếp tục chửi bới đánh đập chị H, nay chị H và anh D đã ly thân và không còn quan tâm đến nhau nữa. Chị H xác định không thể tiếp tục chung sống với anh D được nên khởi kiện yêu cầu ly hôn anh D.
Về con chung chị H và anh D sinh được 02 con chung:
1. Cháu Hoàng Thị Thu Hương, sinh ngày 17 tháng 01 năm 2006;
2. Cháu Hoàng Đình Duy, sinh ngày 27 tháng 8 năm 2008.
Hiện nay hai cháu đang sinh sống cùng chi H sau khi ly hôn chị H có nguyện vọng được nuôi cả 02 con chung và không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con.
Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án nên Tòa án nhân dân huyện Bảo Yên đã tiến hành các thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa anh Hoàng Văn D khai vợ chồng anh D và chị Huền mượn nhà em gái chị H để làm ăn buôn bán, nhưng do buôn bán không được vợ chồng anh cãi nhau dẫn đến chị H đuổi anh D về nhà từ tháng 5 năm 2019, từ thời gian này anh D và chị H sống ly thân. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn anh D yêu cầu được nuôi con chung.
Tại phiên tòa bị đơn vẫn giữ nguyên quan điểm.
Tại phiên tòa đại diện viện kiểm sát nhân dân nhận xét và đề nghị Hội đồng xét xử:
Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn, bị đơn từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay đã chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, 71, 72, 234 BLTTDS.
Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147, 227 BLTTDS, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Quốc hội, chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị H.
- Về quan hệ hôn nhân: xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Hoàng Văn D.
- Về con chung: Giao cháu Hoàng Thị Thu Hương (SN: 17/01/2006) cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến khi cháu đủ 18 tuổi; Giao cháu Hoàng Đình Duy (SN 27/8/2008) cho anh Hoàng Văn D trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu đủ 18 tuổi. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản: Không yêu cầu giải quyết, nên không xem xét đề cập.
- Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm tố tụng: Không.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Chị Nguyễn Thị H khởi kiện ly hôn anh Hoàng Văn D, anh D cư trú tại huyện Bảo Yên. Vì vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Bảo Yên được quy định tại các Điều 28; 35 và 39 bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Chị H và anh D đăng ký kết hôn vào năm 2004, quá trình chung sống luôn xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh chị anh D không tu trí lao động sản xuất dẫn đến thường xuyên cãi chửi nhau. Lời khai của bố mẹ đẻ chị H cũng xác định từ năm 2014 vợ chồng anh D chị H thường xuyên bất hòa, anh D thường chửi, đánh chị H. Nay anh chị đã sống ly thân đến không còn quan tâm đến nhau nữa. Hôn nhân của chị H và anh D đã đến mức trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được. Cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H là phù hợp.
[3] Về con chung anh chị có 02 con chung, các cháu hiện nay đang sinh sống cùng chị H, chị H có mức thu nhập từ 6.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng/01 tháng, anh D có mức thu nhập 6.000.000 đồng/01 tháng. Anh D và chị H đều có điều kiện nuôi con cần giao cháu cháu Hoàng Thị Thu Hương sinh ngày 17 tháng 01 năm 2006 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến khi cháu đủ 18 tuổi; Giao cháu Hoàng Đình Duy , sinh ngày 27 tháng 8 năm 2008 cho anh Hoàng Văn D trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu đủ 18 tuổi. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.
[4] Chị Nguyễn Thị H H có đơn xin xét xử vắng mặt cần áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 238 BLTTDS xét xử vắng mặt chị H là phù hợp.
[5] Về tài sản các đương sự không yêu cầu nên không đề cập giải quyết. [6] Về án phí nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 51, 56, 81, khoản 1, 3 Điều 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí lệ phí của Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân:
Xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Hoàng Văn D.
2. Về con chung:
Giao cháu cháu Hoàng Thị Thu Hương sinh ngày 17 tháng 01 năm 2006 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến khi cháu đủ 18 tuổi; Giao cháu Hoàng Đình Duy, sinh ngày 27 tháng 8 năm 2008 cho anh Hoàng Văn D trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục nuôi dưỡng đến khi cháu đủ 18 tuổi. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.
Chị H và anh D có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí:
Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí sơ thẩm là 300.000 đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0001614 ngày 21 tháng 8 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 14/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 14/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bảo Yên - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về