Bản án 14/2019/HNGĐ-ST ngày 23/10/2019 về ly hôn; tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH GIANG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 14/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/10/2019 VỀ LY HÔN; TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25/9/2019 và 23/10/2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 97/2019/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2019 về việc: Ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lương Thị H - sinh năm 1991.

Địa chỉ: Thôn H, xã C, huyện C, tỉnh Hải Dương.

Bị đơn: Anh Hoàng Văn L , sinh năm 1973.

Đa chỉ: Thôn TL, xã TH, huyện B, tỉnh Hải Dương.

Chị H có mặt, anh L vắng mặt không có lý do

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ti đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Lương Thị H trình bày:

Chị và anh Hoàng Văn L được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã TH ngày 01/11/2011 và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục. Vợ chồng tổ chức cuộc sống chung vui vẻ hòa thuận được một thời gian ngắn thì vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung trong cuộc sống. Anh L không có sự quan tâm, trách nhiệm với gia đình. Khi chị sinh con tại bệnh viện, anh L cũng không đến thăm nom, động viên mẹ con chị, thậm chí không đóng viện phí và không muốn đón mẹ con chị về nhà nên chị đã về bố mẹ đẻ tại Cẩm Điền, Cẩm Giàng ở từ khi sinh con cho đến nay không quay lại chung sống cùng anh L nữa.

Từ đó, anh L cũng không đến thăm vợ. Anh chị sống ly thân từ tháng 9/2012 đến nay không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau.

Chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không có hạnh phúc. Vợ chồng đã sống ly thân 6 năm nay không thể hàn gắn, đoàn tụ. Chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh L để sớm ổn định cuộc sống riêng.

Về con chung: Chị H xác định vợ chồng có 01 con chung là Hoàng Minh H1, sinh ngày 05/9/2012, hiện đang ở cùng chị. Nguyện vọng của chị xin được nuôi dưỡng cháu H1 và tự nguyện không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung.

Ti phiên tòa cháu Hoàng Minh H1 trình bày nguyện vọng xin được ở cùng chị H .

Về tài sản chung, nợ chung: Chị H không đề nghị Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho anh Hoàng Văn L các văn bản tố tụng của Tòa án, nhưng anh L đều vắng mặt không có lý do, không gửi bản tự khai trình bày ý kiến về giải quyết vụ án cho Tòa án.

Theo tài liệu xác minh tại thôn TL (trước đây là thôn TP) và UBND xã TH, nơi anh L cư trú xác định: Địa phương không nắm được nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn của vợ chồng, chỉ biết chị H chung sống cùng anh L được hơn một năm, đến khi sinh con thì chị H cho con về gia đình bố mẹ đẻ chứ không quay lại chung sống cùng anh L nữa. Anh chị đã sống ly thân hơn 6 năm nay.

Ti phiên tòa chị H vẫn giữ nguyên quan điểm trình bày nêu trên.

Đi diện VKSND huyện Bình Giang tham gia phiên toà phát biểu quan điểm: Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký Tòa án đã tuân thủ quy định của pháp luật trong thụ lý vụ án, xây dựng hồ sơ, đưa vụ án ra xét xử và các hoạt động tố tụng khác. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử tuân thủ đúng quy định của pháp luật trong điều hành phiên tòa; nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng pháp luật.

Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Lương Thị H . Xử cho chị Lương Thị H ly hôn anh Hoàng Văn L .

- Về con chung: Giao cho chị Lương Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung Hoàng Minh H1. Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết vì đương sự không yêu cầu.

- Về án phí: Chị Lương Thị H phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định và được trừ vào tiền tạm ứng án phí ly hôn đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Hoàng Văn L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng đều vắng mặt không có lý do. HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt anh L theo qui định tại khoản 1 Điều 228 BLTTDS.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lương Thị H và anh Hoàng Văn L kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã TH ngày 01/11/2011, đây là hôn nhân hợp pháp. Lời khai của chị H về mâu thuẫn vợ chồng phù hợp kết quả xác minh của Tòa án tại địa phương, nên có căn cứ xác định chị Lương Thị H và anh Hoàng Văn L đã xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, tính cách không hòa hợp, anh L không có trách nhiệm với gia đình và không quan tâm tới chị H , vợ chồng sống ly thân từ tháng 9/2012 đến nay. Xét thấy mâu thuẫn giữa hai bên đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần xử cho chị Lương Thị H được ly hôn anh Hoàng Văn L là phù hợp với qui định tại Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị H , anh L có một con chung Hoàng Minh H1, sinh ngày 05/9/2012, hiện chị H đang trực tiếp nuôi dưỡng.

Chị H trực tiếp chăm nuôi con từ khi con sinh ra cho đến nay, con chung được chị H chăm sóc có sự phát triển tốt về thể chất, tinh thần, học tập; chị H làm công nhân, thu nhập trung bình 6.500.000đ/tháng, đang ở cùng bố mẹ đẻ và có sự hỗ trợ từ bố mẹ trong việc chăm sóc con. Như vậy, cần thiết giao con cho chị H nuôi dưỡng là đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con chung.

Chị H tự nguyện không yêu cầu anh L cấp dưỡng tiền nuôi con chung, cần chấp nhận.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn, bị đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết, HĐXX không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Lương Thị H là nguyên đơn, phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lương Thị H . Xử cho chị Lương Thị H ly hôn anh Hoàng Văn L .

2. Về con chung: Giao cho chị Lương Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung Hoàng Minh H1, sinh ngày 05/9/2012 (hiện đang ở cùng chị H ) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, trưởng thành. Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Lương Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Giang, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0005371 ngày 20/6/2019. Chị Lương Thị H đã nộp đủ án phí.

Chị Lương Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Hoàng Văn L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2019/HNGĐ-ST ngày 23/10/2019 về ly hôn; tranh chấp nuôi con

Số hiệu:14/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Giang - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về