Bản án 14/2019/HNGĐ-ST ngày 16/08/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 14/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/08/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 16 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa Hôn nhân gia đình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 35/2019/HNGĐ-ST, ngày 08-7-2019 về việc “Ly hôn”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 17/2019/QĐXX-ST ngày 09 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thanh N, sinh ngày: 27-5-1994, địa chỉ: Xã Đ, huyện Đ, tỉnh Nghệ An, có mặt

 Bị đơn: Anh Trần Hồng L, sinh ngày: 03-01-1990, địa chỉ: Thị trấn X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh, hiện đang lao động tự do tại Nhật Bản, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa, vụ án có nội dung:

Sau một thời gian tự do tìm hiểu, ngày 25-4-2016 tại Ủy ban nhân dân thị trấn X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh anh Trần Hồng L và chị Trần Thị Thanh N thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn và sau đó tổ chức lễ cưới công khai tại gia đình hai bên có sự chứng kiến của người thân, bạn bè và chính quyền địa phương. Sau khi kết hôn, chị N về chung sống cùng gia đình chồng. Khoảng 03 tháng sau khi kết hôn, anh L đi lao động tại Nhật Bản, chị N vẫn tiếp tục chung sống cùng bố mẹ chồng. Thời gian đầu, anh L gọi điện thường xuyên với chị N nhưng thời gian sau đó thông tin hai bên ít dần và đến nay không còn liên lạc. Hiện tại, chị N đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Do khoảng cách địa lý xa xôi, tình cảm vợ chồng không được vun đắp, xây dựng, trên cơ sở những bất đồng về quan điểm sống trước đó nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Hai vợ chồng đã ly thân từ lâu, đến nay không thể duy trì hôn nhân nên chị N làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Hồng L.

Về con chung: Hai vợ chồng chưa có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tài sản chung, nợ chung: Hai vợ chồng không nợ chung ai và cũng không cho ai nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Trần Hồng L đã gọi điện thoại về trình bày quan điểm: Khẳng định anh và chị N hiện nay không còn tình cảm vì chị N không chung thủy khi còn là vợ chồng nên anh cũng không níu kéo, đồng ý ly hôn. Về con chung, tài sản chung, nợ chung: anh L trình bày quá trình chung sống vợ chồng chưa có con chung, không có tài sản chung, không nợ ai và cũng không ai nợ, do đó không yêu cầu tòa án giải quyết. Hiện tại, vì công việc nên anh L không thể về Việt Nam để tham gia phiên tòa nên đề nghị giải quyết vắng mặt. Các văn bản tố tụng của Tòa án gửi về cho bố mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị S, ông Trần Văn M.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh tham gia phiên tòa sau khi phát biểu về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự đã phân tích đánh giá chứng cứ của vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị Trần Thị Thanh N được ly hôn anh Trần Hồng L, về con chung, nợ chung, tài sản chung: Chị N và anh L trình bày vợ chồng chưa có con chung, không có tài sản chung, nợ chung nên không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có tại hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh thực hiện đầy đủ các quy định theo hướng dẫn tại điểm b, tiểu mục 2.1; Mục II, Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP ngày 14/6/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn. Tuy nhiên, anh Trần Hồng L trình bày vì công việc và điều kiện ở xa, không về tham gia tố tụng được, văn bản tố tụng đề nghị gửi qua thân nhân hiện đang cư trú tại thị trấn X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh. Tòa án cũng đã tiến hành làm việc với người nhà anh Trần Hồng Lam là bà Nguyễn Thị S - mẹ đẻ anh L, đồng thời bà S cam đoan sẽ thông báo, tống đạt các tài liệu, văn bản tố tụng của Tòa án gửi cho anh L. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, văn bản số 253/2018/TANDTC-PC ngày 26-11-2018 của Tòa án nhân dân tối cao Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định.

Do quá trình giải quyết vụ án không xác định được địa chỉ cụ thể của anh Trần Hồng L nên Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã thực hiện ủy thác tư pháp về Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Hà Tĩnh tiến hành ghi âm, ghi hình cuộc điện thoại qua hệ thống Zalo do anh L gọi về trình bày quan điểm về nội dung chị N yêu cầu Tòa án giải quyết, nội dung ghi âm được lập thành văn bản có xác nhận của chính quyền địa phương, dưới sự chứng kiến của người nhà anh Trần Hồng L là thực hiện đúng quy định tại Điều 93, 94, khoản 2 Điều 95 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tòa án đã tiến hành tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Thông báo mở lại phiên tòa cho anh Trần Hồng L qua thân nhân là thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Hôn nhân giữa anh Trần Hồng L và chị Trần Thị Thanh N được xây dựng trên cơ sở tình yêu, tự do tìm hiểu và hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo đức, thuần phong mỹ tục, đăng ký kết hôn và tổ chức lễ cưới công khai nên là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn hai vợ chồng về chung sống cùng gia đình chồng, đời sống hôn nhân hạnh phúc. Sau đó, anh L đi lao động tại Nhật Bản. Do công việc, thời gian đầu anh còn thường xuyên gọi điện về thăm hỏi, động viên vợ nhưng sau đó thưa thớt dần và đến nay hai vợ chồng không còn liên lạc. Chị N một thời gian sau khi anh L đi lao động tại Nhật Bản cũng xin phép hai bên gia đình về sống cùng bố mẹ đẻ tại huyện Đ, tỉnh Nghệ An. Đến thời điểm hiện nay, hai vợ chồng không còn nói chuyện, liên lạc với nhau, đã sống ly thân trong một thời gian dài. Cả hai vợ chồng đều có quan điểm đồng ý ly hôn.

Tại thời điểm Hội đồng xét xử mở phiên tòa, chị N vẫn giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn vì cho rằng tình cảm vợ chồng thực sự không còn mà chỉ tồn tại trên danh nghĩa.

Xét thấy, tình cảm vợ chồng giữa anh Trần Hồng L và chị Trần Thị Thanh N hiện nay không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng cần chấp nhận yêu cầu của chị N như quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp, giải quyết cho chị N được ly hôn với anh L là đúng quy định của pháp luật.

[2.2] Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Chị N và anh L đều trình bày vợ chồng chưa có con chung, không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử miễn xét. Trong trường hợp có phát sinh tranh chấp thì đương sự có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác.

[3] Về án phí: Chị Trần Thị Thanh N chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, 37, 227, 469, 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 51, 56, 57, 71, 123, 127 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014: Chấp nhận nội dung khởi kiện của chị Trần Thị Thanh N.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị Thanh N được ly hôn với anh Trần Hồng L.

2. Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 buộc chị Trần Thị Thanh N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, đã nộp tại biên lai số 001319 ngày 08 tháng 7 năm 2019 của Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Hà Tĩnh.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án (hoặc ngày niêm yết công khai bản án theo quy định pháp luật).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
  • Tên bản án:
    Bản án 14/2019/HNGĐ-ST ngày 16/08/2019 về ly hôn
  • Cơ quan ban hành:
  • Số hiệu:
    14/2019/HNGĐ-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hôn Nhân Gia Đình
  • Ngày ban hành:
    16/08/2019
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2019/HNGĐ-ST ngày 16/08/2019 về ly hôn

Số hiệu:14/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về