Bản án 14/2018/HNGĐ-ST ngày 29/01/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỌ XUÂN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 14/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/01/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm công khai  vụ án thụ lý số: 281/2017/TLST/HNGĐ ngày 20 tháng 10 năm 2017 về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2017/QĐXXST- HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Phương A; Sinh năm 1993. Có mặt. Địa chỉ: Thôn C xã P, huyện G, tỉnh H.

2. Bị đơn: Anh Tống Bá C; Sinh năm 1993. Vắng mặt. Nơi ĐKHKTT: Thôn 15 xã X, huyện T, tỉnh T

Hiện nay đang chấp hành án phạt tù tại Trại tạm giam số 1 Công an Thành Phố H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tại bản tự khai và tại phiên tòa Nguyên đơn là chị Trần Thị Phương A trình bày:

Về hôn nhân: Chị Phương A và anh Tống Bá C tự nguyện kết hôn đăng ký kết hôn vào ngày 18/4/2017 tại UBND xã P, huyện G, tỉnh H. Trong quá trình chung sống chị Phương A phát hiện anh Tống Bá C có sử dụng ma túy. Anh C thường xuyên sử dụng ma túy trong thời gian chung sống cùng chị. Anh C đã giấu chị trong thời gian tìm hiểu và yêu nhau. Ngày 20/4/2017 chị Phương A nhận được thông tin từ Công an cho biết anh Tống Bá C đã bị Công an bắt về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Hiện nay anh Tống Bá C đã bị xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đang chấp hành hình phạt tù tại Trại Tạm giam số 1 Công an Thành Phố H. Ngay sau khi phát hiện anh C là người nghiện ma túy và đang bị tạm giam về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy chị Phương A đã bị sốc và suy sụp sức khỏe tinh thần dẫn đến sảy thai. Hành vi vi phạm pháp luật và lừa dối của anh C đã khiến tinh thần của chị suy sụp trầm trọng, vì thế tình cảm của chị dành cho anh C không còn, hôn nhân không thể hàn gắn được. Vợ chồng đã sống ly thân và cắt đứt mọi quan hệ tình cảm từ ngày 20/4/2017 đến nay. Nay chị Phương A nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với anh Tống Bá C.

Về con chung: Vợ chồng không có con chung. Về tài sản: Vợ chồng không có tài sản chung.

Tại phiên tòa bị đơn là anh Tống Bá C vắng mặt, tại bản tự khai ngày 23/11/2017 anh Tống Bá C trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Phương A tự nguyện tìm hiểu thời gian hơn một năm thì tổ  chức cưới theo phong tục tập quán, đăng ký kết hôn vào ngày 18/4/2017 tại UBND xã P, huyện G, tỉnh H. Sau khi cưới tình cảm vợ chồng bình thường. Ngày 21/4/2017 anh C bị Công an bắt về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Từ ngày bị bắt đến nay vợ chồng không liên lạc với nhau. Nay anh C yêu cầu ly hôn thì anh nhận thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn, chưa đến mức ly hôn nên anh C có nguyện vọng và mong muốn được hàn gắn với vợ.

Về con chung: Vợ chồng không có con chung. Về tài sản: Vợ chồng không có tài sản chung.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Bị đơn là anh Tống Bá C hiện đang chấp hành án phạt tù tại Trại tạm giam số 1 Công an Thành Phố H. Tòa án đã giao các văn bản tố tụng cho anh Tống Bá C. Anh Tống Bá C đã nhận được các văn bản tố tụng theo quy định pháp luật nên căn cứ vào điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt anh Tống Bá C.

[2]. Về nội dung: Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị Phương A và anh Tống Bá C là hôn nhân hợp pháp tại vì anh chị đã đăng ký kết hôn theo đúng quy định pháp luật. Quá trình chung sống trong khoảng thời gian ngắn thì anh Tống Bá C bị bắt và xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Hiện tại anh C đang chấp hành án phạt tù tại Trại tạm giam số 01 Công an Thành Phố H. Vợ chồng đã ly thân nhau từ ngày 20/4/2017 đến nay, chị Phương A nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh C. Hội đồng xét xử xét thấy: Mặc dù anh Tống Bá C không đồng ý ly hôn nhưng việc anh C vi phạm pháp luật phải chấp hành án phạt tù về tội phạm ma túy đã làm cho đời sống sức khỏe và tinh thần của chị Phương A suy sụp trầm trọng và dẫn đến việc chị Phương A bị sảy thai; Mặt khác vợ chồng đã sống ly thân trong thời gian 09 tháng, cuộc hôn nhân của anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào khoản 1 điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Phương A được ly hôn với anh C theo yêu cầu của một bên là phù hợp.

Về con chung và tài sản chung của vợ chồng không có, chị Phương A không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.

[3]. Về án phí: Chị Phương A phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tố tụng: Căn cứ vào điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt anh Tống Bá C.

2.Về hôn nhân: Căn cứ vào khoản 2 điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Xử cho ly hôn giữa chị Trần Thị Phương A và anh Tống Bá C.

3. Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết  số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của UBTVQH; Buộc chị Trần Thị Phương A phải chịu 300.000đ án phí DSST nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ đã nộp tạm ứng án phí theo Biên lai thu số: AA/2016/0000690 ngày 20/10/2017 của Chi cục Thi hành án huyện Thọ Xuân.

Chị Trần Thị Phương A được quyền kháng cáo án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Tống Bá C được quyền kháng cáo án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2018/HNGĐ-ST ngày 29/01/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:14/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thọ Xuân - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về