Bản án 14/2018/HNGĐ-ST ngày 22/06/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 14/2018/HNGĐ-ST NGÀY 22/06/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 22 tháng 6 năm 2018, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 17/2018/TLST-HNGĐ ngày 31 tháng 01 năm 2018 về “Tranh chấp hôn nhân gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Hoàng Văn T, sinh năm 1988.

Địa chỉ: thôn Y, xã ĐL, huyện HL, tỉnh Thanh Hóa, có mặt

2. Bị đơn: Chị Hoàng Thị Y, sinh năm 1990.

Địa chỉ: thôn KH, xã HĐ, huyện HT, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 26/01/2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn là anh Hoàng Văn T trình bày: Giữa nguyên đơn và bị đơn là chị Hoàng Thị Y kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã ĐL, huyện HL, tỉnh Thanh Hóa ngày 15/3/2010. Quá trình chung sống đến tháng 7/2013 thì chị Y đi xuất khẩu lao động tại Malayxia. Tháng 06/2015 chị Y về nước nhưng không về chung sống cùng anh mà về nhà bố mẹ đẻ ở thôn KH, xã HĐ, huyện HT, tỉnh Thanh Hóa để sinh sống. Chị Y còn yêu cầu anh làm đơn xin ly hôn nhưng anh không đồng ý, từ đó đến nay anh không còn liên lạc được với chị Y nữa. Anh T đã đến nhà bố mẹ đẻ của chị Y để tìm hiểu thông tin nhưng gia đình, người thân không ai biết chị Y đi đâu, làm gì. Anh T đã đề nghị Tòa án nhân dân huyện Hà Trung tuyên bố một người mất tích đối với chị Y. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, anh T đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Y.

Về con chung: Anh Hoàng Văn T khai anh và chị Hoàng Thị Y có một con chung, cháu tên là Hoàng Anh Đ, sinh ngày 08/7/2011. Hiện tại cháu Đ đang ở với anh T. Anh T đề nghị được nuôi cháu Đ và không yêu cầu chị Y cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản: Anh Hoàng Văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tống đạt hợp lệ triệu tập chị Hoàng Thị Y đến Tòa án để viết bản khai nhưng chị Y không có mặt, nên không có lời khai của chị Y.

Tại phiên tòa, anh T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh Hoàng Văn T có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải nên thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 4, Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự. Chị Hoàng Thị Y đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn không có mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị Y là phù hợp với quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 3, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

 [2]. Về hôn nhân: Anh Hoàng Văn T khai anh và chị Hoàng Thị Y kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc đến tháng 7/2013 thì chị Y đi xuất khẩu lao động tại Malayxia. Tháng 06/2015 chị Y về nước nhưng không về chung sống cùng anh mà về nhà bố mẹ đẻ ở thôn KH, xã HĐ, huyện HT, tỉnh Thanh Hóa, sau đó chị Y đi đâu, làm gì không ai có tin tức gì về chị. Anh T đã có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Hà Trung tuyên bố một người mất tích đối với chị Y. Tại quyết định số 03/2018/QĐDS-ST ngày 12/01/2018 của Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa đã tuyên bố chị Hoàng Thị Y mất tích. Nay anh T có đơn yêu cầu xin ly hôn chị Y, cần căn cứ khoản 2, điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết cho anh T được ly hôn chị Y là phù hợp.

[3]. Về con chung: Anh Hoàng Văn T khai anh và chị Hoàng Thị Y có một con chung, cháu tên là Hoàng Anh Đ, sinh ngày 08/7/2011. Anh T cũng xuất trình cho tòa án một bản sao giấy khai sinh của cháu Đ, thể hiện cháu Đ là con chung của anh T và chị Y. Mặt khác, cháu Đ sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nên đủ cơ sở khắng định cháu Đ là con chung của anh T và chị Y. Hiện tại chị Y đã bị Tòa án tuyên bố mất tích nên giao cháu Đ cho anh T nuôi dưỡng là phù hợp. Ghi nhận sự tự nguyện của anh T về việc không yêu cầu chị Y phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[4]. Về tài sản: Anh Hoàng Văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét. [5]. Về án phí: Anh Hoàng Văn T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 2 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 6, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Hoàng Văn T và chị Hoàng Thị Y.

2. Về con chung: Công nhận cháu Hoàng Anh Đ, sinh ngày 08/7/2011 là con chung của anh T và chị Y. Giao cháu Đ cho anh T trực tiếp nuôi. Ghi nhận sự tự nguyện của anh T về việc không yêu cầu chị Y phải cấp dưỡng nuôi con chung. Chị Y có quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Hoàng Văn T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) anh T đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2017/0000153 ngày 31/01/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Anh T đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Anh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Y có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2018/HNGĐ-ST ngày 22/06/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:14/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về