Bản án 1419/2018/HNGĐ-ST ngày 12/10/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1419/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/10/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 12 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 127/2016/TLST-HNGĐ ngày 31 tháng 03 năm 2016, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4099/2018/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 9 năm 2018 ngày giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phạm Thị L, sinh năm 1960 Địa chỉ: Đường Q, Phường P, Quận N, Thành phố H(Vắng Mặt).

Đại diện ủy quyền của bà Phạm Thị L: Ông Nguyễn Hồng T, sinh năm 1976 Địa chỉ: Đường Q, Phường T, Quận N, Thành phố H(vắng mặt).

Bị đơn: Ông Nguyen H, sinh năm 1960 Địa chỉ: 7 Kennedy Rd Morley WA 6062 Australia (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 21/3/2016, và bản tự khai, nguyên đơn bà Phạm Thị L trình bày:

Bà và ông Nguyen H quen biết và tự nguyện kết hôn vào năm 2011 có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Theo giấy chứng nhận kết hôn số 2029 Quyển số 7 ngày 13/6/2011.

Sau khi kết hôn bà và ông Nguyen H sống với nhau hạnh phúc. Đến năm 2013 thì xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, ông Nguyen H không về Việt Nam để bảo lãnh bà sang Australia đoàn tụ nên tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, từ cuối năm 2013 đến nay bà và ông Nguyen H không còn liên lạc với nhau. Mặt khác, do sự cách xa nhau về địa lý nên bà và ông Nguyen H không có thời gian quan tâm, chăm sóc và vun vén hạnh phúc gia đình. Nay bà nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Nguyen H.

Về con chung: Bà Phạm Thị L khai không có Về tài sản chung và nợ chung : Bà Phạm Thị L khai không có Ngày 27/7/2016 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã có Công văn số 744/UTTPDS-TA về việc thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp gửi Bộ Tư Pháp yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền của Australia thông báo việc thụ lý vụ án, tiến hành lấy lời khai và thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần thứ nhất vào lúc 08 giờ 00 phút ngày 15 tháng 3 năm 2017, lần thứ 2 vào lúc 08 giờ 00 phút ngày 14/4/2017 và xét xử công khai lần thứ nhất vào lúc 08 giờ 30 phút ngày 30 tháng 6 năm 2017.

Ngày 18/8/2016, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 3604/BTP-PLQT về việc thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp theo đó, đề nghị Bộ Ngoại giao (Cục Lãnh sự) thực hiện ủy thác tư pháp đối với ông Nguyen H.

Do đến ngày thông báo mở phiên tòa xét xử lần thứ nhất mà vẫn chưa nhận được kết quả trả lời. Vì vậy, ngày 16/8/2017 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Công văn số 786/TATP-TGĐVNCTN gửi Bộ Tư pháp yêu cầu Bộ tư pháp trả lời về việc thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp cho ông Nguyen H Ngày 13/10/2018 Bộ Tư pháp có Công văn số 3081/BTP-PLQT về việc đề nghị Bộ Ngoại giao trả lời về tiến độ thực hiện ủy thác tư pháp cho ông Nguyen H.

Ngày 02/01/2018 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhận được Công văn số 3761/BTP-PLQT ngày 26/12/2017 về kết quả ủy thác tư pháp đối với ông Nguyen H, theo đó Cơ quan có thẩm quyền của Australia đã thực hiện thành công ủy thác nêu trên.

Ngày 04/01/2018 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã có Công văn số 07/UTTPDS-TA về việc thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp gửi Bộ Tư Pháp yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền của Australia thông báo việc thụ lý vụ án, tiến hành lấy lời khai và thông báo phiên Tòa xét xử công khai lần thứ hai vào lúc 08 giờ 00 phút ngày 12 tháng 10 năm 2018.

Ngày 12/10/2018 đã đến ngày thông báo mở phiên tòa xét xử lần thứ hai theo Công văn ủy thác số 07/UTTPDS-TA ngày 04/01/2018, tuy nhiên bị đơn ông Nguyen H vắng mặt vì vậy Tòa án vẫn xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Ngày 02/10/2018, nguyên đơn bà Phạm Thị L có đơn xin vắng mặt trong tất cả các buổi xét xử lý lý do bận công việc, bà xin giữ nguyên các ý kiến của bà trong đơn khởi kiện, bản tự khai và giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với ông Nguyen H.

Về con chung: Không có Về tài sản chung và nợ chung: Không có Bị đơn ông Nguyen H đã được Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành ủy thác tư pháp hợp lệ để tham gia tố tụng tại Tòa án nhưng ông Nguyen H không có văn bản trả lời và vắng mặt không lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Việc tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về “ Nguyên tắc xét xử, thành phần hội đồng xét xử, sự có mặt của các thành viên trong hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa; phạm vi xét xử sơ thẩm” tại phiên tòa sơ thẩm.

Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bà Phạm Thị L được ly hôn với ông Nguyen H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

1/ Về tố tụng:

- Về thẩm quyền giải quyết : Xét yêu cầu của nguyên đơn thuộc tranh chấp về ly hôn, bị đơn ông Nguyen H có quốc tịch Úc, đang cư trú hợp pháp tại Úc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 37 ; điểm a khoản 2 Điều 38 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về vắng mặt đương sự : Xét nguyên đơn bà Phạm Thị L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt tại phiên tòa. Ông Nguyen H đã được tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành ủy thác tư pháp thông báo thời gian xét xử nhưng vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bà Phạm Thị L, ông Nguyen H theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

2/ Về nội dung vụ án : Xét yêu cầu ly hôn của bà Phạm Thị L, Hội đồng xét xử nhận thấy :

Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số 2029 Quyển số 7 do Ủy bân nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 13/6/2011 có đủ cơ sở để xác định quan hệ hôn nhân giữa bà Phạm Thị L và ông Nguyen H là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn, bà Phạm Thị L khai rằng hai vợ chồng sống với nhau hạnh phúc. Đến năm 2013 thì xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, ông Nguyen H không về Việt Nam để bảo lãnh bà sang Australia đoàn tụ nên tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt. Từ cuối năm 2013 đến nay thì bà và ông Nguyen H không liên lạc với nhau nữa. Xét thấy vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau ; cùng nhau san sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình ; nghĩa vụ cùng sống với nhau trong khi hai vợ chồng bà Phạm Thị L và ông Nguyen H mỗi người một nơi, tình cảm vợ chồng càng không có điều kiện vun đắp. Tòa án cũng đã tiến hành ủy thác tư pháp cho ông Nguyen H để thông báo ngày hòa giải, xét xử nhưng vẫn không thấy ông Nguyen H trả lời chứng tỏ ông Nguyen H không còn quan tâm đến cuộc hôn nhân này nên yêu cầu của bà Phạm Thị L ly hôn ông Nguyen H là có cơ sở đế chấp nhận.

Con chung : Bà Phạm Thị L khai không có Tài sản chung và nợ chung : Bà Phạm Thị L khai không có.

3/ Án phí :

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm : bà Phạm Thị L phải chịu theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; khoản 1 Điều 37; khoản 2 Điều 38; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 ; khoản 1 Điều 273; Điều 464; điểm d khoản 1, khoản 2 Điều 469; điểm a khoản 5 Điều 477 ; Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:

Căn cứ khoản 1 Điều 51 ; Điều 53 ; Điều 54; khoản 1 Điều 56 ; Điều 57 ; Điều 122 ; Điều 123 ; Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.

Tuyên xử :

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị L.

1/ Quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị L được ly hôn ông Nguyen H.

Giấy chứng nhận kết hôn số số 2029 Quyển số 7 do Ủy bân nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 13/6/2011 không còn giá trị pháp lý kể tự ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Về con chung : Không có Về tài sản chung và nợ chung : Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2/ Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: bà Phạm Thị L phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí 200.000 (hai trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền số AE/2011/03230 ngày 30/3/2016 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

3/ Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn bà Phạm Thị L và bị đơn ông Nguyen H; thời hạn kháng cáo của bà Phạm Thị L là 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ. Đối với ông Nguyen H thời hạn kháng cáo bản án là 01 (một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

4/ Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1419/2018/HNGĐ-ST ngày 12/10/2018 về ly hôn

Số hiệu:1419/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về