Bản án 141/2020/HS-ST ngày 24/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 141/2020/HS-ST NGÀY 24/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 24 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 122/2020/HSST ngày 20 tháng 5 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 150/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 6 năm 2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Minh T; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1990; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: ấp Tân T, xã T, huyện M, tỉnh B; Chỗ ở (nhà trọ): nhà số 76/1, đường A, khu phố 3, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Bảo vệ; Trình độ văn hoá: 3/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Thanh T (chết) và bà: Nguyễn Thị T (chết); Bị cáo có vợ và 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2019, con. Tiền án, tiền sự: Không:

Tạm giam ngày: 13/02/2020 cho đến nay.

( Bị cáo Nguyễn Minh T có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 11 giờ 00 ngày 13/02/2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Thủ Đức phối hợp cùng Công an phường T, quận T kiểm tra tại phòng số 2, nhà số 76/1, đường B, khu phố 3, phường T quận T, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện bắt quả tang Nguyễn Minh T có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Minh T khai nhận nghiện ma túy tổng hợp từ tháng 12/2019. Khoảng 23 giờ ngày 12/02/2020, T liên lạc với người thanh niên tên T (không rõ lai lịch) trên mạng xã hội Facebook, hẹn gặp T tại ngã tư đường P và T để mua 500.000 đồng ma túy tổng hợp. Sau khi giao tiền và nhận ma túy tại điểm hẹn, T mang ma túy về phòng cất giấu ở đầu nằm và đi ngủ, đến 11 giờ ngày 13/02/2020 thì bị kiểm tra bắt quả tang như đã nêu trên.

Theo bản kết luận giám định số 312/KLGĐ-H ngày 17/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: 01 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Minh T và hình dấu Công an phường T, quận T, là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine( MA), khối lượng 0,5549g.

Tại bản Cáo trạng số 131/CT-VKS ngày 15/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Nguyễn Minh T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Bị cáo Nguyễn Minh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức đã truy tố. Bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu và kết luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, đồng thời áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và các tình tiết giảm nhẹ để xử phạt: Bị cáo Nguyễn Minh T từ: 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, vật chứng xử lý theo quy định pháp luật.

Bị cáo không tranh luận hoặc bào chữa gì, lời sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Căn cứ các tài liệu chứng cứ thu thập được và kết quả tranh luận tại phiên tòa có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo như sau:

Khoảng 11 giờ 00 ngày 13/02/2020, tại phòng số 2, nhà số 76/1, đường C, khu  2 phố 3, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Minh T bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép ma túy để sử dụng. Qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng lượng 0,5549g gam, loại Methamphetamine. Với hành vi đó, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Nguyễn Minh T đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, giảm cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Đối với người thanh niên tên T (không rõ lai lịch) là người bán ma túy cho bị cáo T đến nay chưa xác định được lai lịch. Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục xác minh khi làm rõ xử lý sau.

[4] Về xử lý vật chứng:

- 01 điện thoại di động hiệu MI màu vàng đồng có sim số: 0582892585, bị cáo khai sử dụng để liên hệ mua ma túy nên tịch thu sung ngân sách Nhà nước và 01 điện thoại di động hiệu ITEL màu vàng đen có sim số: 0938053471, xét không liên quan đến vụ án nên tuyên trả lại cho bị cáo nhưng cần tiếp tục tạm giữ để bảo đảm thi hành nghĩa vụ nộp án phí của bị cáo.

- 01 gói ny lon chứa tinh thể không màu thu giữ trong góc phòng của T là ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T: 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/02/2020.

3- Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

+ Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01điện thoại di động hiệu MI màu vàng đồng có sim số: 0582892585 + Trả lại cho bị cáo: 01điện thoại di động hiệu ITEL màu vàng đen có sim số: 0938053471 nhưng tiếp tục tạm giữ để bảo đảm thi hành khoản tiền án phí của bị cáo.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 gói ny lon chứa tinh thể không màu thu giữ trong góc  3 phòng của T.

(Vật chứng tại Phiếu nhập kho số NKT2020/128 ngày 29/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức).

4- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

467
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 141/2020/HS-ST ngày 24/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:141/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về