Bản án 141/2020/HS-ST ngày 16/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 141/2020/HS-ST NGÀY 16/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 140/2020/TLST-HS ngày 05 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 157/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Võ Phan Đăng K, sinh năm 1999 tại Bình Dương. Nơi cư trú: Số 253/3, khu phố T, phường A, thị xã (nay là thành phố) T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Chí H và bà Nguyễn Thị Thu L; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 11/12/2019 cho đến nay; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Nguyễn Thị Thu L, sinh năm 1969; nơi cư trú: Số 253/3, khu phố T, phường A, thị xã (nay là thành phố) T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

2. Bà Huỳnh Trung M, sinh năm 1989; nơi cư trú: Khóm 01, phường 8, thành phố C, tỉnh Cà Mau. Tạm trú: Số 786/91/6, khu phố 2, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

Người làm chứng: Trần H, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm t t như sau:

- Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Võ Phan Đăng K là đối tượng nghiện ma túy. Ngày 10/12/2019, K đi đến huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh chơi thì gặp người bạn tên B (không rõ họ tên, địa chỉ cư trú) cho K 01 (một) túi nylon miệng kéo dính bên trong có chứa ma túy để K sử dụng. Sáng ngày 11/12/2019, K đi đến phòng trọ của Huỳnh Trung M (bạn gái K) tại địa chỉ số 786/91/6, khu phố 2, phường Ca, thành phố T, tỉnh Bình Dương để chơi. Tại đây, K lấy một ít ma túy ra sử dụng với M, số ma túy còn lại K cất vào túi xách da của K. Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 11/12/2019, K cất túi xách da vào trong cốp xe mô tô hiệu Honda Air Blade màu đen cam, biển số 61C1-503.15 rồi điều khiển xe chạy đến đường Yersin đoạn thuộc khu phố 2, phường Hiệp Thành, thành phố Thủ Dầu Một thì bị lực lượng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Bình Dương kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra, lực lượng Cảnh sát giao thông phát hiện bên trong túi xách da của K có chứa 01 (một) túi nylon bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy và một số vật dụng để sử dụng ma túy nên bắt giữ K giao cho Công an phường Hiệp Thành lập biên bản tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang.

Tại phiên tòa, bị cáo K đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Quá trình điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến gì về hành vi phạm tội của bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi phạm tội của bị cáo K đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về các vấn đề khác của vụ án:

Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm: 01 (một) túi nylon miệng kéo dính bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng; 01 (một) ống thủy tinh; 01 (một) bình ga mini có gắn đầu khò lửa; 01 (một) túi xách da màu đen; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 1202; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 1280; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung; 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Air Blade màu đen cam, biển số 61C1- 503.XX.

Ngày 18/12/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương có Kết luận giám định số 898/MT-PC09 kết luận: 01 (một) túi nylon miệng kéo dính bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 2,2788 gam.

Quá trình điều tra xác định xe mô tô hiệu Honda Air Blade, màu đen cam, biển số 61C1-503.XX do bà Nguyễn Thị Thu L đứng tên trên Giấy chứng nhận đăng ký xe. Ngày 10/12/2019, Võ Phan Đăng K mượn xe mô tô trên của bà L đi công việc sau đó thực hiện hành vi phạm tội bà L không biết. Ngày 16/12/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một đã giao trả lại xe mô tô trên cho bà L theo Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu số 23 ngày 16/12/2019.

Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 1202, màu xanh, số Imel 3631XX, có sim số 0372.3909XX; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 1280, màu đen, số Imel 3532XX, có sim số 0934.1820XX; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh số Imel 3575XX đã thu giữ của K là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một ra Quyết định chuyển các điện thoại nêu trên đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một để đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một tuyên trả cho bị cáo K.

Đối với 01 (một) túi nylon miệng kéo dính bên trong có chứa ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng sau giám định là 2,1039 gam; 01 (một) túi xách da màu đen; 01 (một) ống thủy tinh; 01 (một) bình ga mini có gắn đầu khò lửa. Xét thấy, đây là công cụ K dùng để sử dụng ma túy và là vật chứng của vụ án nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một ra Quyết định chuyển vật chứng nêu trên cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một để đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một tuyên tịch thu tiêu hủy.

Đối với người người nam tên Bi đã cho K ma túy để sử dụng. Do không xác định rõ nhân thân, lai lịch, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau.

- Về trích dẫn cáo trạng của Viện kiểm sát:

Cáo trạng số 160/CT-VKS-HS ngày 05/6/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Võ Phan Đăng K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo K mức hình phạt từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

+ Về biện pháp tư pháp:

Đối với 01 bì thư niêm phong bên trong có 01 túi nylon chứa ma túy trọng lượng sau giám định 2,1039 gam; 01 (một) ống thủy tinh; 01 (một) bình ga mini có gắn đầu khò lửa; 01 (một) túi xách da màu đen của bị cáo là tang vật của vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 1202, màu xanh, số Imel 363198, có sim số 0372.3909XX; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 1280, màu đen, số Imel 3532XX, có sim số 0934.1820XX; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, màu xanh, số Imel 3575XX là tài sản cá nhân của Võ Phan Đăng K không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên trả lại cho bị cáo.

Bị cáo Võ Phan Đăng K không có ý kiến tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Võ Phan Đăng K đã khai nhận: Khoảng 14 giờ 30 ngày 11/12/2019, tại khu phố 2, phường Hiệp Thành, thành phố Thủ Dầu Một, bị cáo K có hành vi tàng trữ 2,2788 gam ma túy, loại Methamphetamine trong túi xách da để sử dụng thì bị lực lượng công an bắt quả tang. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án, phù hợp lời khai người làm chứng, nội dung bản cáo trạng và diễn biến tại phiên tòa. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 như cáo trạng truy tố là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Về nhận thức, bị cáo biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, làm phát sinh các tệ nạn xã hội. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến chế độ quản lý chất ma túy của nhà nước mà còn ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Hội đồng xét xử quyết định xử bị cáo một mức án tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Xét đề nghị của kiểm sát viên về mức hình phạt đối với bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về vật chứng của vụ án:

- Một gói ma túy có trọng lượng 2,1039 gam loại Methamphetamine; 01 (một) ống thủy tinh; 01 (một) bình ga mini có gắn đầu khò lửa; 01 (một) túi xách da màu đen là tang vật của vụ án không có giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 1202 màu xanh (số Imel 3631XX) có sim số 0372.3909XX; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu đen (số Imel 3532XX) có sim số 0934.1820XX; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh (số Imel 3575XX) là tài sản cá nhân của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử tuyên trả lại cho bị cáo.

[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Các Điều 106, 136, 260 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên bố bị cáo Võ Phan Đăng K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1./ Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Võ Phan Đăng K 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/12/2019.

2./ Về vật chứng của vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy: 2,1039 gam Methamphetamine; 01 (một) ống thủy tinh; 01 (một) bình ga mini có gắn đầu khò lửa; 01 (một) túi xách da màu đen.

- Trả lại cho bị cáo Võ Phan Đăng K 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 1202 màu xanh (số Imel 3631XX) có sim số 0372.3909XX; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu đen (số Imel 3532XX) có sim số 0934.1820XX; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh (số Imel 3575XX).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 128.20 ngày 19/5/2020 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một và Công an thành phố Thủ Dầu Một).

3./ Về án phí: Bị cáo Võ Phan Đăng K phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 141/2020/HS-ST ngày 16/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:141/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về