Bản án 141/2020/DS-ST ngày 14/08/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

 BẢN ÁN 141/2020/DS-ST NGÀY 14/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 8 năm 2020 tại Tòa án nhân dân thị xã Hoài Nhơn tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 87/2020/TLST-DS ngày 11 tháng 3 năm 2020 về việc Tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 106/2020/QĐXX-ST ngày 01 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Tăng Thị K, sinh năm 1958 (có mặt) Địa chỉ: Khu phố TT, thị trấn TBH, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.

Bị đơn: Bà Võ Thị X, sinh năm 1979 (vắng mặt lần hai không lý do) Địa chỉ: Thôn XV, xã HM, thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày, lời khai và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Tăng Thị K trình bày: Vào ngày 18/2/2018, bà Võ Thị X có viết giấy vay của bà số tiền là 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng. Thời gian đã lâu nhưng bà X vẫn chưa trả lại cho bà số tiền còn nợ.

Nay bà K yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Võ Thị X trả lại cho bà số tiền còn nợ. Bà K không yêu cầu lãi suất.

- Theo trình bày của bị đơn, bà Võ Thị X là: Mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do nên không có lời khai.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đúng theo qui định, tuy nhiên còn vi phạm về việc không lập biên bản giao nhận tài liệu, chứng cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà Võ Thị X trả cho bà Tăng Thị K số tiền 30.000.000 đồng, về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn, bà Võ Thị X chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Tại phiên tòa, bị đơn bà Võ Thị X vắng mặt không có lý do, dù được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai; theo qui định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bà X.

[2] Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã gửi Thông báo về việc thụ lý vụ án cho bà X nhưng bà X không có văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn. Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập, thông báo hợp lệ nhiều lần nhưng bà X vẫn cố tình vắng mặt. Vì bà X vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được, không tiến hành đối chất giữa các đương sự với nhau được. Tòa đã đến nhà nhiều lần nhưng bà X không có ở nhà và không có người thân nhận thay nên để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Tòa đã tiến hành thủ tục niêm yết các văn bản tố tụng của tòa án theo quy định pháp luật. Qua xác minh tại công an xã HM, bà X vẫn còn hộ khẩu tại địa phương và chưa cắt chuyển khẩu đi nơi khác. Thấy rằng, việc vắng mặt của bà X là cố ý. Vì vậy, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để giải quyết theo qui định của pháp luật.

[3] Theo lời khai và tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn, bà Tăng Thị K cung cấp, Hội đồng xét xử xác định: Vào ngày 18/2/2018, bà X vay của bà K số tiền 30.000.000 đồng, bà X có lập giấy mượn tiền, nhưng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bà K theo thỏa thuận. Theo quy định tại Điều 463, 469 Bộ luật dân sự 2015 thì đây là hợp đồng vay tài sản không kỳ hạn và không có lãi. Việc yêu cầu trả nợ của bà K là phù hợp với quy định pháp luật.

Từ những phân tích trên, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà K buộc bà X trả nợ cho bà K số tiền 30.000.000 đồng là có căn cứ.

[4] Về lãi suất: Vì bà K không yêu cầu bà X trả lãi nên Tòa không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Vì yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận nên theo qui định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị đơn bà X phải chịu số tiền án phí dân sự sơ thẩm là: 30.000.000 đồng x 5% = 1.500.000 (Một triệu năm trăm nghìn) đồng.

[6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà X trả cho bà K số tiền 30.000.000 đồng là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử và đúng qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 463, 466, 469 của Bộ luật dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án; tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Tăng Thị K. Buộc bà Võ Thị X trả cho bà Tăng Thị K số tiền 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng.

Đối với trường hợp khoản tiền phải thu nộp vào ngân sách Nhà nước mà pháp luật có quy định nghĩa vụ trả lãi; hoặc khoản tiền bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; hoặc trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ về tài sản trong hoặc ngoài hợp đồng khác mà các bên không thỏa thuận về việc trả lãi thì quyết định kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2/ Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Bà Võ Thị X phải nộp 1.500.000 (Một triệu năm trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Trả lại cho bà Tăng Thị K số tiền 750.000 (Bảy trăm năm mươi nghìn) đồng bà đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0005710 ngày 11 tháng 3 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.

3/ Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ để Tòa án cấp trên xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 141/2020/DS-ST ngày 14/08/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:141/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoài Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về