Bản án 141/2019/HS-ST ngày 03/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ MỸ, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 141/2019/HS-ST NGÀY 03/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 10 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 142/2019/TLST-HS ngày 18/9/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 126/2019/QĐST-HS ngày 23/9/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ đối với các bị cáo:

1. Trương Minh T, tên gọi khác: T Ốc, sinh năm: 1985 tại Bà Rịa-Vũng Tàu.

Trú tại: tổ 10, khu phố S, phường T, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu;

nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Huyền P (đã chết) và bà Sái Thị B (đã chết); Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, Tiền sự: Không. Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 27/6/2019. (có mặt)

2. Trần H, sinh năm: 1987 tại Bà Rịa-Vũng Tàu Trú tại: Khu phố H, phường P, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo:

Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quang M và bà Nguyễn Thị C;

bị cáo chưa có vợ con;

Tiền án: 01. Ngày 06/12/2017, Trần H bị Tòa án nhân dân huyện Tân Thành (nay là thị xã Phú Mỹ) tuyên phạt 09 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 144/2017/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/9/2018.

Tiền sự: không;

Bị bắt tạm giữ từ ngày 27/6/2019, chuyển tạm giam từ ngày 03/7/2019 đến nay tại Nhà tạm giữ công an thị xã Phú Mỹ. (có mặt)

Bị hại: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm: 1982. Trú tại: tổ 1, khu phố T, phường P, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. (vắng mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trương Minh T, sinh năm:

1991. Trú tại: tổ 10, khu phố S, phường T, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 06 giờ ngày 27/6/2019, Trương Minh T điều khiển xe mô tô hiệu Honda Future BKS: 72E1-359.67 đi đến nhà của Trần H rủ H đi trộm cắp bình ắc quy của các xe tải bán lấy tiền tiêu xài. H đồng ý. Sau đó, T điều khiển xe mô tô trên chở H đi dọc Quốc lộ 51, khi cả hai đến khu vực khu phố T, phường P, thị xã Phú Mỹ thì phát hiện chiếc xe ô tô tải BKS: 38C-050.77 của anh Nguyễn Văn B đang đậu ở lề đường không có người trông coi. T chở H đến sát chiếc xe trên rồi T đứng cảnh giới, H lén lút dùng kìm (đã chuẩn bị sẵn trước đó) gỡ bình ắc quy của xe tải. H gỡ xong 01 bình ắc quy thì bảo T cùng khiêng lên xe mô tô. Sau đó, H tiếp tục dùng kìm và bảo T dùng mỏ lết (T có sẵn trong cốp xe mô tô) cùng gỡ bình ắc quy thứ 02 của xe tải trên. Tuy nhiên, cả hai chưa kịp gỡ xong thì bị anh B cùng những người dân xung quanh phát hiện, tri hô. H và T lên xe định tẩu thoát xong chỉ có T chạy thoát được còn H bị anh B và người dân bắt giữ giao nộp cho Công an phường P. Cơ quan công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ tang vật gồm: 01 xe mô tô hiệu Honda Future màu đen BKS: 72E1-359.67, 01 kìm có tay nắm màu đỏ dài 20 cm, 01 mỏ lết dài 25 cm, 01 bình ắc quy hiệu GSPlusone.

Đến 15 giờ ngày 27/6/2019, Trương Minh T đã đến cơ quan CSĐT Công an thị xã Phú Mỹ để đầu thú về hành vi trộm cắp tài sản của mình.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra, Trương Minh T và Trần H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Theo Bản kết luận định giá tài sản số 85/KL-HĐĐG-TTHS ngày 01/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản thị xã Phú Mỹ xác định: Trị giá 02 (hai) bình ắc quy nhãn hiệu GS PLUS ONE loại 150Ah, đã qua sử dụng, còn lại khoảng 97,9% giá trị là: 6.265.600 đồng (Sáu triệu hai trăm sáu mươi lăm ngàn sáu trăm đồng).

Về xử lý vật chứng:

01 (một) bình ắc quy nhãn hiệu GS PLUS ONE loại 150Ah đã được cơ quan điều tra trao trả lại cho bị hại là anh Nguyễn Văn B. Anh B đã nhận lại tài sản trên.

01 (một) xe mô tô hiệu Honda Future màu đen BKS: 72E1-359.67 (Số khung: JC54E3056874, Số máy: 538XEZ036338) là phương tiện Tài và Hải dùng để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản được xác định là tài sản hợp pháp của anh Trương Minh T1, là em của Trương Minh T. T hỏi mượn xe của anh T1 đi uống cà phê, anh T1 không biết T sử dụng vào mục đích trộm cắp tài sản. Do đó, cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng và trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh T1.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại tài sản, anh Nguyễn Văn Bkhông yêu cầu gì khác.

Tại bản cáo trạng số 148/CT-VKSPM ngày 10/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ đã truy tố Trương Minh T, Trần H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Trương Minh T, Trần H phạm tội “Trộm cắp tài sản” ; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trương Minh T 9-12 tháng tù. Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần H 12- 18 tháng tù.

Các bị cáo Trương Minh T, Trần H không tranh luận về tội danh, mức hình phạt chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo Trần H, Trương Minh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận của các bị cáo với lời khai của bị hại, nhân chứng và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 06 giờ 00 phút ngày 27/6/2019, tại khu vực khu phố Tân Lộc, phường P, thị xã Phú Mỹ, Trần H, Trương Minh T đã có hành vi lén lút trộm cắp 02 (hai) bình ắc quy nhãn hiệu GS PLUS ONE loại 150Ah có trị giá 6.265.600 đồng (Sáu triệu hai trăm sáu mươi lăm ngàn sáu trăm đồng) của anh Nguyễn Văn B, đang gắn trên xe ô tô tải BKS: 38C-050.77 đậu ở lề đường Quốc lộ 51.

Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015, đúng như truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi của các bị cáo: Xét hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội; trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây tác động xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương, gây hoang mang lo lắng cho người dân. Các bị cáo đều đã trưởng thành, có sức khỏe, nhưng vì tham lam, lười lao động muốn có tiền tiêu xài các bị cáo đã cố ý lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. Vì vậy, cần phải có mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của các bị cáo, cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong đó T giữ vai trò chính vừa khởi xướng, cảnh giới vừa cùng thực hiện hành vi phạm tội với H nên mức hình phạt của T phải cao hơn mức hình phạt của H.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần mức hình phạt. Riêng bị cáo Tài phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tự đến cơ quan công an đầu thú nên được áp dụng thêm điểm i khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần mức hình phạt.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Tài không có. Bị cáo Hải có 1 tiền án về tội trộm cắp bị xét xử vào năm 2017, mức án 9 tháng tù nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội. Nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015, nên mức hình phạt của Hải phải cao hơn bình thường.

[6] Về xử lý vật chứng:

01 (một) bình ắc quy nhãn hiệu GS PLUS ONE loại 150Ah là tang vật vụ án đã được cơ quan điều tra trả lại cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Văn B.

01 (một) xe mô tô hiệu Honda Future màu đen BKS: 72E1-359.67 là phương tiện T và H dùng để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là tài sản hợp pháp của anh Trương Minh T1, em của Trương Minh T. Tài hỏi mượn xe của anh T1 đi uống cà phê, anh T1 không biết T sử dụng vào mục đích trộm cắp tài sản. Do đó, cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng và trao trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh T1 01 chiếc kìm của bị cáo H và 01 chiếc mỏ lết của bị cáo T được sử dụng làm công cụ phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại tài sản, anh Nguyễn Văn B không yêu cầu gì khác.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Trương Minh T, Trần H phạm tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng: khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trương Minh T 9 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Áp dụng: khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần H 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 27/6/2019.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 chiếc kìm và 01 mỏ lết của các bị cáo được sử dụng làm công cụ phạm tội, đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án thị xã Phú Mỹ theo biên bản giao vật chứng ngày 12/9/2019.

Về trách nhiệm dân sự: Không ai yêu cầu giải quyết Về án phí: Mỗi bị cáo Trương Minh T, Trần H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án (Riêng bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 141/2019/HS-ST ngày 03/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:141/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về