TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 141/2017/HSST NGÀY 16/08/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 16/8/2017, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 147/2017/HSST ngày 25/7/2017 đối với bị cáo
Lường Văn H; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1989 tại xã T, huyện T, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản L, xã T, huyện T, tỉnh Sơn La; Dân tộc : Thái; Trình độ văn hoá: 7/12; Quốc tịch : Việt Nam; Nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; Con ông: Lường Văn B 55 tuổi; Con bà: Lường Thị M 51 tuổi; Bị cáo có vợ : Lò Thị H ( đã ly hôn ) và 1 con 7 tuổi; Tiền sự: Không; Tiền án: + Ngày 28/6/2006 bị Toà án nhân dân huyện T xử phạt 12 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản; Ngày 07/5/2008 bị Toà án nhân dân huyện T xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Ngày 24/9/2010 bị Toà án nhân dân huyện T xử phạt 7 năm 6 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo mãn hạn tù ngày 27/4/2016; Bị cáo bị bắt tạm giam kể từ ngày 02/6/2017 cho đến nay có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau :
Hồi 09 giờ 20 phút ngày 02/6/2017 Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu làm nhiệm vụ tại khu vực Bản N, xã T, huyện T phát hiện bắt quả tang Lường Văn H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Vật chứng thu giữ gồm: Một gói giấy một mặt mầu vàng, một mặt mầu trắng bên trong có chứa một ít bột cục màu trắng nghi là Heroin ( H khai là Heroin ).
Hồi 16 giờ 30 phút cùng ngày Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu đã tiến hành bóc mở niêm phong cân tịnh số bột màu trắng thu giữ của Lường Văn H, cân tịnh được trọng lượng là: 0,13gam, rút 0,05 gam ký hiệu H1 gửi giám định chất ma túy, còn 0,08 gam ký hiệu H2 niêm phong nhập kho vật chứng.
Tại Kết luận giám định Số: 568/ KLMT ngày 08/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “ Mẫu gửi giám định ký hiệu H1 là chất ma túy, loại chất Heroin, trọng lượng của mẫu gửi giám định là 0,05 gam. Tổng trọng lượng chất ma túy thu được là 0,13 gam, loại chất Heroin”.
Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, Lường Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:
Khoảng 08 giờ ngày 02/6/2017 Lường Văn H đi xe ôm từ nhà ở Bản L xã T lên xã C, huyện Thuận Châu với mục đích để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến bản L, xã C thì H xuống xe và đi bộ vào trong bản L thì gặp và mua được của một người phụ nữ dân tộc Thái ( Hướng không biết tên và địa chỉ cụ thể ở đâu) một gói Heroin gói bằng nilon màu trắng với giá 30.000đ. Sau khi mua được Heroin thì H đi vào một bụi cây ven đường san ra một ít Heroin để sử dụng. Sau khi sử dụng xong số Heroin còn lại H gói lại bằng một mảnh giấy một mặt mầu vàng, một mặt mầu trắng rồi cầm bên tay phải rồi đi bộ về nhà. Khi H về đến khu vực bản N, xã C thì gặp Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu đến yêu cầu kiểm tra ma túy. Do sợ bị bắt nên H đã thả gói ma túy từ tay phải xuống đường nhưng vẫn bị tổ công tác phát hiện bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang.
Bản cáo trạng số: 109/KSĐT ngày 25/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La truy tố bị cáo Lường Văn H về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm p khoản 2 Điều 194 BLHS.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La giữ quyền công tố luận tội và tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về điểm, điều, khoản và tội danh trên.
Căn cứ vào nhân thân, hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lường Văn H phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm p khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1, 2 Điều 46 BLHS; khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội và theo Công văn hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc hướng dẫn một số quy định có lợi cho người phạm tội. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 xét xử theo hướng có lợi cho bị cáo.
Đề nghị xử phạt bị cáo Lường Văn H từ 5 năm 6 tháng đến 6 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 02/6/2017 ( là ngày bị bắt tạm giam đối với bị cáo).
Đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.
Về vật chứng : Đề nghị HĐXX tuyên tiêu hủy bột cục màu trắng là chất ma túy, loại chất Heroin có trọng lượng 0,08 gam đã niêm phong tronmg phong bì thư.
Về án phí : Đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của bị cáo Lường Văn H : Nhất trí như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng bị cáo đã nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất cho bị cáo sớm được trở lại cộng đồng xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau :
Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.
Về nội dung vụ án : Ngày 02/6/2017 Lường Văn H đã có vi tàng trữ trái phép 0,13 gam chất ma túy, loại chất Heroin nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân. Lường Văn H đã có 03 tiền án về các tội Trộm cắp tài sản và Mua bán trái phép chất ma túy đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng là tái phạm nguy hiểm chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng.
Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay có lời khai thống nhất, hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện, đủ căn cứ kết luận bị cáo Lường Văn H phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, vi phạm điểm p khoản 2 Điều 194 BLHS. Như quyết định truy tố và quan điểm luận tội tại phiên toà của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La là có căn cứ đúng pháp luật.
Tại khoản 1, 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định :
“1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp đây thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm :
a) -------------------------------------
p) Tái phạm nguy hiểm
Tại điểm c khoản 1, điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định :
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm Mục đích mua
bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) -------------------------------------
c) Heroin, cocain… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp đây thì bị phạt tù từ 05 năm đến
10 năm :
a)------------------------------------- n) Tái phạm nguy hiểm
Mặc dù Bộ luật hình sự năm 2015 chưa có hiệu lực pháp luật, tuy nhiên theo Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội và theo Công văn số 276/TANDTC-PC, ngày 13/9/2016 của Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn một số quy định có lợi cho người phạm tội. HĐXX xét thấy cần áp dụng khoản 3 Điều 7; điểm n khoản 2 Điều 249 BLHS năm 2015 xét xử theo hướng có lợi cho bị cáo, tạo cơ hội cho bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.
Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Lường Văn H tàng trữ trái phép chất ma tuý với số lượng nhỏ, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy. Bị cáo đã tái phạm nguy hiểm chưa được xóa án tích là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm p khoản 2 Điều 194 BLHS. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân làm gia tăng những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự. Tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, gây thiệt hại lớn về kinh tế, gây tác hại cho sức khỏe, làm suy thoái giống nòi, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc gia.
Xét nhân thân bị cáo Lường Văn H :
+ Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự : Bị cáo Lường Văn H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
+ Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự : Bị cáo Lường Văn H tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình do đó cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS. Hoàn cảnh bị cáo vợ ly hôn bị cáo nuôi con nhỏ đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS.
Nhân thân bị cáo là người nghiện ma tuý, biết rõ tác hại của ma tuý là nhà nước cấm mặc dù đã được giáo dục cải tạo nhiều lần nhưng bị cáo vẫn cố tình phạm tội rất nghiêm trọng. Căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị
cáo cần ra một mức án tương xứng mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật trong việc đấu tranh với tệ nạn ma tuý trong giai đoạn hiện nay. Cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian dài mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo sau khi ra tù trở thành những người công dân tốt có ích cho xã hội.
Bị cáo Lường Văn H đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Vận dụng khoản 1, 3 Điều 228 BLTTHS.
Về hình phạt bổ sung : Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 BLHS năm 199 quy định : “ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm’’, do đó bị cáo Lường Văn H có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là nông dân thu nhập phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, điều kiện kinh tế khó khăn, bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, là hộ cận nghèo, bị cáo không có đủ điều kiện và khả năng thi hành hình phạt bổ sung do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Đối với người phụ nữ dân tộc Thái là người Lường Văn H khai đã bán cho H một lượng Heroin trị giá 30.000đ vào ngày 02/6/2017, nhưng do Hướng không biết họ tên và địa chỉ cụ thể của người phụ nữ này ở đâu do vậy không có căn cứ để điều tra xử lý.
Về vật chứng vụ án : 0,08 gam chất ma túy loại chất Heroin, là hàng quốc cấm cần tuyên tiêu hủy vận dụng Điều 41 BLHS và Điều 76 BLTTHS.
Về án phí : Gia đình bị cáo Lường Văn H có giấy chứng nhận hộ cận nghèo năm 2017 được UBND xã T, huyện T xác nhận. Do vậy Hội đồng xét xử miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo vận dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Về quyền kháng cáo : Bị cáo Lường Văn H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án vận dụng Điều 231, Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh : Tuyên bố bị cáo Lường Văn H phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
2. Về hình phạt : Áp dụng điểm p khoản 2 Điều 194, điểm p khoản 1, 2 Điều 46 BLHS năm 1999; Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7, điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015: Phạt bị cáo Lường Văn H 6 ( sáu ) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 02/6/2017 ( là ngày bị bắt tạm giam đối với bị cáo).
3. Về vật chứng : Áp dụng Điều 41 BLHS và Điều 76 BLTTHS: Tuyên tịch thu tiêu hủy : Bột cục màu trắng là chất ma túy, loại chất Heroin có trọng lượng 0,08 gam, đã niêm phong trong phong bì thư.
4. Về án phí : Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án : Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lường Văn H.
5. Về quyền kháng cáo : Áp dụng Điều 231, Điều 234 BLTTHS : Bị cáo Lường Văn H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 141/2017/HSST ngày 16/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 141/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về