Bản án 1410/2019/HNGĐ-ST ngày 18/10/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1410/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 18 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 417/2018/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3726/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 7446/2019/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị Ngọc B, sinh năm 1967 Địa chỉ: đường M, phường N, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Ho Quoc H, sinh năm 1964 Địa chỉ: USA 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 09/8/2018 và bản tự khai, nguyên đơn bà Lê Thị Ngọc B trình bày:

Bà và ông Ho Quoc H tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2008, có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 2549, quyển số 09 ngày 31/7/2008 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau được vài tháng thì ông Ho Quoc H quay trở về Hoa Kỳ. Năm 2009, ông H có về Việt Nam thăm vợ khoảng 03 tháng. Thời gian không sống chung với nhau, vợ chồng liên lạc qua điện thoại. Từ năm 2010, bà không còn có thể liên lạc được với chồng, bà biết được ông Ho Quoc H có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác ở bên Hoa Kỳ và muốn chấm dứt mọi liên lạc với bà. Đến nay, bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân với ông Ho Quoc H nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Có 01 người con tên Hồ Quốc K, sinh ngày 20/01/2010 hiện đang ở với mẹ. Khi ly hôn, bà có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng người con chung, không yêu cầu ông Ho Quoc H phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Bị đơn ông Ho Quoc H cư trú ở Hoa Kỳ, Tòa án thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp, đã gửi Thông báo về việc thụ lý vụ án, ngày mở phiên họp, phiên tòa xét xử vụ án dân sự sơ thẩm số 46/UTTPDS-TA30 ngày 22/01/2019. Theo nội dung thông báo nêu trên thì thời gian mở phiên tòa lần 1 vào lúc 14g00 ngày 19/9/2019, thời gian mở phiên tòa lần 2 vào lúc 14g00 ngày 18/10/2019. Văn bản đã được Đại sứ quán Việt Nam tại Hợp chúng quốc Hoa Kỳ niêm yết vào ngày 01/3/2019 nhưng đương sự không đến nhận hoặc không có hồi âm. Ngày 02/6/2019, Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ có Văn bản số 59/BC-UTTP thông báo kết quả đăng tin trên cổng thông tin điện tử của Đại sứ quán từ ngày 18/3/2019 (thời gian 01 tháng).

Hết thời hạn, Tòa án không nhận được lời khai, tài liệu chứng cứ của ông Ho Quoc H; đến ngày mở phiên tòa ông Ho Quoc H không có mặt.

Tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Lê Thị Ngọc B vắng mặt.

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:

Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của tố tụng dân sự về thụ lý vụ án, thủ tục thu thập chứng cứ, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu và thủ tục xét xử vắng mặt tại phiên tòa.

Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Bà Lê Thị Ngọc B được ly hôn ông Ho Quoc H. Con chung: Giao bà B trực tiếp nuôi dưỡng người con chung Hồ Quốc K, sinh ngày 20/01/2010. Ghi nhận việc bà B tự nguyện không yêu cầu ông Ho Quoc H cấp dưỡng nuôi con chung. Tài sản chung không có gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Nguyên đơn bà Lê Thị Ngọc B đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam; bị đơn ông Ho Quoc H cư trú tại Hoa Kỳ; giữa đôi bên có tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam theo quy định tại Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 2 Điều 38, Điều 464, Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2] Về sự có mặt của các đương sự tại phiên tòa sơ thẩm:

Nguyên đơn bà Lê Thị Ngọc B có Đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn ông Ho Quoc H vắng mặt đến lần thứ 2. Căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy:

Bà Lê Thị Ngọc B và ông Ho Quoc H tự nguyện tìm hiểu kết hôn với nhau vào năm 2008, có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn vào Sổ số 2549, quyển số 09 ngày 01/8/2008 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy hôn nhân giữa đôi bên là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Theo lời khai của bà B thì sau khi kết hôn vợ chồng chung sống được thời gian ngắn thì ông Ho Quoc H quay trở về Hoa Kỳ. Vợ chồng liên lạc với nhau qua điện thoại, hạnh phúc bình thường đến tháng 5/2010 thì phát sinh mâu thuẫn do ông H có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác ở Hoa Kỳ. Sau đó, bà không còn có thể liên lạc được với chồng. Từ đó đến nay vợ chồng không gặp nhau, mạnh ai nấy sống. Đến nay, bà B xác định không thể tiếp tục duy trì cuộc hôn nhân được nữa và có yêu cầu ly hôn.

Xét, tình nghĩa vợ chồng phải xuất phát từ cả hai phía cùng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng và cùng có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Thực tế vợ chồng đã không còn sống cùng nhau và kể từ khi bà B nộp đơn ly hôn ông Ho Quoc H không về Việt Nam, không tạo điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng mà vẫn mạnh ai nấy sống trong thời gian dài nên hôn nhân giữa đôi bên lâm vào tình trạng trầm trọng. Vì vậy, nếu tiếp tục kéo dài quan hệ hôn nhân nói trên thì mục đích của hôn nhân cũng không thể đạt được. Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ nên Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu của bà B.

Về con chung: Bà B khai có 01 người con Hồ Quốc K, sinh ngày 20/01/2010 hiện đang ở với bà. Khi ly hôn, bà B có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng người con chung, không yêu cầu ông Ho Quoc H thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con do bà có khả năng kinh tế để nuôi con.

Tại bản tự khai ngày 12/9/2018, ý kiến người con Hồ Quốc K chọn được sống với mẹ.

Xét, người con chung chưa thành niên hiện đang sống cùng với bà B, do bà B trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Xét, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa nhận thấy để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho người con được phát triển toàn diện và được sống ổn định, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà B, giao người con chung chưa đủ tuổi trưởng thành cho bà B trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của con, phù hợp với qui định pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con ý kiến bà B không yêu cầu. Xét ý kiến bà B là tự nguyện, không trái quy định pháp luật, Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về tài sản chung và nợ chung: bà B khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu có tranh chấp các đương sự được quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định pháp luật.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng nguyên đơn chịu. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 37, khoản 2 Điều 38, Điều 464, Điều 469, Điều 474, Điều 477, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 19, Điều 51, Điều 54, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự 2008;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn;

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Ngọc B được ly hôn ông Ho Quoc H.

Giấy chứng nhận kết hôn vào Sổ số 2549, quyển số 09 ngày 01/8/2008 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: Giao bà Lê Thị Ngọc B được quyền trực tiếp nuôi dưỡng người con chung Hồ Quốc K, sinh ngày 20/01/2010. Ghi nhận bà B tự nguyện không yêu cầu ông Ho Quoc H thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Hai bên được quyền thăm nom con và phải có nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Lê Thị Ngọc B khai không có. Nếu có tranh chấp các đương sự được quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định pháp luật.

4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng bà Lê Thị Ngọc B nộp tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, cấn trừ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng bà B đã nộp tại Biên lai thu số AA/2017/0049448 ngày 21/8/2018 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, bà B đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn bà Lê Thị Ngọc B và bị đơn ông Ho Quoc H; bà Lê Thị Ngọc B được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ, ông Ho Quoc H được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1410/2019/HNGĐ-ST ngày 18/10/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1410/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về