Bản án 1409/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1409/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 950/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2019, về việc “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 715/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Thái Tuyết A- sinh năm 1985

Thường trú: khu phố B, phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (có yêu cầu vắng mặt)

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Tri H- sinh năm 1985

Địa chỉ: khu phố B, phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và lời trình bày của bà Thái Tuyết A trong quá trình tham gia tố tụng:

Bà và ông Nguyễn Tri H tự nguyện chung sống có tổ chức hỏi cưới và đăng ký kết hôn vào năm 2015 tại Ủy ban nhân dân phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi kết hôn ông bà chung sống bình thường cho đến năm 2016, sau khi bà sinh con thì ông H thường xuyên uống rượu, bia về nhà gây gổ với bà, thiếu trách nhiệm với gia đình, không đóng góp kinh tế và phụ bà chăm sóc con nhỏ. Bà đã khuyên nhủ để gia đình hạnh phúc hơn nhưng ông H không thay đổi, thậm chí khi ông H tỉnh táo bà nói chuyện thì ông H có thái độ cộc cằn, không nói chuyện. Trước khi kết hôn, ông bà cũng đã có thời gian tìm hiểu, ông H cũng thường xuyên uống rượu, bia như vậy nhưng bà nghĩ sau khi kết hôn, có vợ con thì ông H sẽ thay đổi nhưng ông H không thay đổi. Mâu thuẫn của ông bà kéo dài từ năm 2016 cho đến nay, việc ai người đó làm, không có sự qua tâm dành cho nhau. Nay cuộc sống chung không mang lại hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn, bà đã suy nghĩ kỹ và yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông H.

Về con chung: có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng Tuyết T1 sinh ngày 04/12/2016. Bà yêu cầu trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông Nguyễn Tri H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: không yêu cầu Toà án giải quyết. Về nợ chung: không có.

Ngày 28/11/2019, bà Thái Tuyết A có đơn yêu cầu vắng mặt tại phiên tòa và giữ nguyên ý kiến đã trình bày trong quá trình tham gia tố tụng.

Ông Nguyễn Tri H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và giấy triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Về tố tụng: việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử là đúng quy định của pháp luật. Về nội dung: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc ly hôn nên căn cứ Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Theo kết quả xác minh của Công an phường L, quận T, ông Nguyễn Tri H cư trú tại quận T nên căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Bà Thái Tuyết A có đơn yêu cầu vắng mặt tại phiên tòa, ông Nguyễn Tri H đã được tống đạt hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do, căn cứ quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[3] Về hôn nhân: Bà Thái Tuyết A và ông Nguyễn Tri H tự nguyện kết hôn và chung sống với nhau theo giấy chứng nhận kết hôn do Ủy ban nhân dân phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh cấp. Do đó, hôn nhân của ông bà là hợp pháp và được pháp luật công nhận. Nay bà Thái Tuyết A nộp đơn yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Tri H, trong quá trình giải quyết vụ án bà A kiên quyết yêu cầu ly hôn.

Xét yêu cầu ly hôn của bà A: Bà A và ông H kết hôn hợp pháp, theo bà A trình bày mâu thuẫn vợ chồng phát sinh do ông H uống rượu, bia sau đó về nhà gây gổ với bà, ông H còn thiếu trách nhiệm với gia đình, không đóng góp kinh tế và phụ bà chăm sóc con nhỏ. Mâu thuẫn giữa ông bà đã kéo dài từ năm 2016 đến nay và không hoà giải được. Qúa trình giải quyết vụ án, Toà án đã tiến hành xác minh tại cơ quan quản lý nhà nước về gia đình và trẻ em, nhưng địa phương không cung cấp được nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn. Xét thấy, để duy trì cuộc sống gia đình hạnh phúc thì cả hai vợ chồng cần có sự thương yêu, chia sẻ với nhau, cả hai đều cùng có mong muốn xây dựng gia đình chung sống cùng nhau. Tuy nhiên, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần ông H đến Tòa để giải quyết vụ án nhưng ông H vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến của ông H. Trong khi đó, bà A kiên quyết yêu cầu ly hôn. Như vậy, có căn cứ khẳng định quan hệ hôn nhân giữa bà A và ông H đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của bà A là có cơ sở chấp nhận.

[4] Về con chung: Căn cứ giấy khai sinh do Ủy ban nhân dân phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh cấp có căn cứ xác định bà Thái Tuyết A và ông Nguyễn Tri H có con chung tên Nguyễn Hoàng Tuyết T1 sinh ngày 04/12/2016.

Xét yêu cầu nuôi con chung của bà A: Cháu Nguyễn Hoàng Tuyết T1 sinh ngày 04/12/2016, đến nay chưa được 36 tháng tuổi. Căn cứ quy định tại Khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thoả thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Theo kết quả xác minh tại công văn số 730/UBND ngày 15/10/2019 của Ủy ban nhân dân phường L, quận T, hiện tại bà A đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Hoàng Tuyết T1 sinh ngày 04/12/2016. Bà A có yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, ông H đã được Tòa án thông báo về yêu cầu được nuôi con chung của bà A nhưng không có ý kiến. Từ những lý do trên nên yêu cầu được nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn của bà A là có cơ sở chấp nhận, giao con chung tên Nguyễn Hoàng Tuyết T1 sinh ngày 04/12/2016 cho bà A trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của bà A không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung: Bà A không yêu cầu Toà án giải quyết.

[6] Về nợ chung: Bà A xác định không có.

[7] Về án phí: Bà Thái Tuyết A phải chịu 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014;

- Căn cứ Luật Phí và Lệ phí năm 2015;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Thái Tuyết A được ly hôn ông Nguyễn Tri H.

2. Về con chung: Bà Thái Tuyết A được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Hoàng Tuyết T1 sinh ngày 04/12/2016. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Thái Tuyết A không yêu cầu ông Nguyễn Tri H cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại Khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con. Việc cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi khi có lý do chính đáng.

3. Về tài sản chung: Bà Thái Tuyết A không yêu cầu Toà án giải quyết.

4. Về nợ chung: Bà Thái Tuyết A xác định không có.

5. Về án phí: Bà Thái Tuyết A phải chịu 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm ngàn) đồng bà Thái Tuyết A đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2019/0003685 ngày 22/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức. Bà Thái Tuyết A đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1409/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn

Số hiệu:1409/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về