Bản án 140/2019/HS-PT ngày 28/10/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 140/2019/HS-PT NGÀY 28/10/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong các ngày 21 và ngày 28 tháng 10 năm 2019, tại Hội trường Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa phúc thẩm công khai xét xử vụ án hình sự thụ lý số 114/2019/TLPT-HS, ngày 17 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Trương S và đồng phạm do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đối với bản án hình sự sơ thẩm số 36/2019/HSST ngày 08/8/2019 của Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh.

Các bị o bị kháng nghị:

1. Nguyễn Trường S; sinh ngày 10 tháng 4 năm 1968; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố C, phường S, thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: H; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Anh N và bà: Trần Thị H; có vợ Nguyễn Thị T và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 28-7-1998, bị Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 12 tháng Cải tạo không giam giữ, về tội Đánh bạc, tại Bản án số 10/HSST, ngày 28-7-1998, đã chấp hành xong bản án và đã xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 22-01-2019 cho đến ngày 19-04-2019 thì được thay đổi biện pháp ngăn chặn cho gia đình bảo lĩnh. (Có mặt tại phiên tòa).

2. Phan Thị T; sinh ngày 06 tháng 01 năm 1987; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố 3, phường S, thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Thợ cắt tóc; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;con ông: Phan Công T và bà Thiều Thị T; có chồng Đặng Hồng Q và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú.(Có mặt tại phiên tòa)

3. Tăng Hoài N; sinh ngày 01 tháng 6 năm 1991; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: H; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tăng Văn H (Đã chết) và bà Lê Thị C; có vợ: Lê Thị H và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 09-11-2011, bị Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 09 tháng tù về tội Cố ý làm hư hỏng tài sản, tại Bản án số 55/2011/HSST, ngày 09-11-2011, đã chấp hành xong bản án và xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giam kể từ ngày 22-01-2019 cho đến ngày 19-04-2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cho gia đình bảo lĩnh. (Có mặt tại phiên tòa)

4. Lê Anh Q; sinh ngày 10 tháng 7 năm 1989; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố 1, phường S, thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Nhân viên Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, chi nhánh Hà Tĩnh, phòng giao dịch Kỳ Anh; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: H; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt H; con ông Lê Sỹ H và bà Nguyễn Thị H; có vợ: Nguyễn Thị C và 01 con; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do biết được Nguyễn Trường S làm “Chủ Đề” nên đầu tháng 01 năm 2019, Phan Thị T và Tăng Hoài N đặt vấn đề ghi “Bảng Đề” cho người đánh “Đề” rồi chuyển cho Nguyễn Trường Sđể hưởng phần trăm tiền hoa hồng từ 20% đến 25% trên tổng số tiền đánh “Đề”, “Xiên”, “Ba càng”, “Đầu”, “Đít” mà mình ghi được; Đối với đánh “Lô” thì 01 điểm “Lô” người ghi bảng đề được hưởng từ 1.000 đồng đến 1.200 đồng. Đồng thời, trong quá trình ghi bảng đề, Phan Thị T giữ lại một phần để làm “Chủ Để”, phần còn lại chuyển cho Nguyễn Trường S (việc Phan Thị T giữ lại một phần bảng đề thì Nguyễn Trường S không biết).

Từ ngày 08/01/2019 đến ngày 15/01/2019 các bị cáo đã thực hiện hành vi đánh bạc cụ thể như sau:

Lần thứ nhất vào ngày 08-01-2019:

Phan Thị Tghi bảng đề cho người đánh đề được: 190 điểm lô (4.370.000đ) và 1.190.000đ tiền đánh đề, đánh xiên. Phan Thị T sử dụng số điện thoại 0943.719.982 nhắn tin vào số điện thoại 0376.883.901 của Nguyễn Trường S chuyển toàn bộ bảng đề cho S, tương ứng với 5.132.000đ, Phan Thị T được hưởng 428.000đ tiền hoa hồng từ Nguyễn Trường S.

Đi chiếu với kết quả xổ số Miền bắc mở thưởng trong ngày thì trong bảng đề mà Phan Thị T chuyển cho Nguyễn Trường S trúng 80 điểm lô, thành tiền là: 6.400.000đ. Số tiền đánh bạc của Nguyễn Trường S: 11.960.000đ; Phan Thị T: 11.960.000đ.

Lần thứ hai vào ngày 09-01-2019:

Phan Thị T ghi bảng đề cho người đánh đề được: 215 điểm lô (4.945.000đ) và 520.000đ tiền đánh đề. Phan Thị T sử dụng số điện thoại 0943.719.982 nhắn tin vào số điện thoại 0376.883.901 của Nguyễn Trường S chuyển đánh 145 điểm lô (3.335.000đ) và 520.000đ tiền đề, tổng cộng 3.855.000đ. Phan Thị Tđược hưởng 249.000đ tiền hoa hồng từ Nguyễn Trường S. Phan Thị T giữ lại 70 điểm lô, thành tiền: 1.610.000đ để đánh với những người đánh lô, đề.

Đi chiếu kết quả xổ số Miền bắc mở thưởng trong ngày thì số lô, số đề Phan Thị Tchuyển đánh với Nguyễn Trường S trúng 10 điểm lô, thành tiền: 800.000 đ và trúng 10.000đ tiền đề, thành tiền: 700.000đ. Tổng số tiền trúng số lô, số đề mà Nguyễn Trường S phải trả cho người đánh đề thông qua Phan Thị T là 1.500.000đ. Số lô Phan Thị T giữ lại để đánh với những người đánh đề không trúng thưởng.

Số tiền đánh bạc trong ngày 09/01/2019 được xác định là: Nguyễn Trường S 5.355.000đ và Phan Thị T: 6.965.000đ.

Lần thứ ba vào ngày 10-01-2019:

Đặng Văn T sử dụng thuê bao điện thoại số 0945.975.756 nhắn tin vào số điện thoại 0943.719.982 của Phan Thị T đánh 100 điểm lô, tính thành tiền 2.300.000đ. Đối chiếu kết quả xổ số Miền bắc mở thưởng trong ngày thì Đặng Văn T không trúng. Ngoài ra, Phan Thị T còn ghi được cho người đánh đề được 190 điểm Lô, thành tiền: 4.370.000đ; 850.000đ tiền Đề và 100.000đ tiền Xiên.

Như vậy, trong ngày 10/01/2019, Phan Thị T ghi được 290 điểm lô, thành tiền: 6.670.000đ và 950.000đ tiền đề, xiên. Phan Thị T sử dụng số điện thoại 0943.719.982 nhắn tin vào số điện thoại 0376.883.901 của Nguyễn Trường S chuyển đánh 160 điểm lô, thành tiền: 3.680.000đ và 950.000đ tiền đề, xiên. Phan Thị T được hưởng 350.000đ tiền hoa hồng từ Nguyễn Trường S. Phan Thị T giữ lại 130 điểm lô, thành tiền: 2.990.000đ để đánh với những người đánh lô.

Đi chiếu kết quả xổ số Miền bắc mở thưởng trong ngày thì số lô, số đề Phan Thị T chuyển đánh với Nguyễn Trường S trúng 20 điểm lô, thành tiền 1.600.000 đ. Số lô Phan Thị T giữ lại đánh với những người đánh lô trúng 40 điểm lô, thành tiền: 3.200.000đ.

Số tiền đánh bạc trong ngày 10-01-2019 được xác định: Nguyễn Trường S 6.230.000đ; Phan Thị T 12.420.000đ; Đặng Văn Thanh: 2.300.000đ

Lần thứ tư vào ngày 11-01-2019:

Đặng Văn T sử dụng thuê bao điện thoại số 0945.975.756 nhắn tin vào số điện thoại 0943.719.982 của Phan Thị T đánh 100 điểm lô, thành tiền: 2.300.000đ. Đối chiếu kết quả xổ số Miền bắc mở thưởng trong ngày thì Đặng Văn T không trúng.

Lê Thế A sử dụng thuê bao điện thoại số 073.399.229 nhắn tin vào số điện thoại 0943.719.982 của Phan Thị T đánh 20 điểm lô, thành tiền: 460.000đ. Đối chiếu kết quả xổ số Miền bắc mở thưởng trong ngày thì Lê Thế A trúng 20 điểm lô, thành tiền: 1.600.000đ, Lê Thế A được hưởng lợi số tiền 1.140.000đ.

Ngoài ra, Phan Thị T còn ghi được cho khách đến đánh đề được: 250 điểm Lô, thành tiền: 5.750.000đ; 920.000đ tiền Đề, 60.000đ tiền Xiên 2 và 50.000đ tiền Đít Như vậy, trong ngày, Phan Thị T ghi bảng đề được: 370 điểm lô, thành tiền: 8.510.000đ và 1.030.000đ tiền đề, xiên, đít. Phan Thị T sử dụng số điện thoại 0943.719.982 của mình nhắn tin vào số điện thoại 0376.883.901 của Nguyễn Trường S để chuyển đánh với S 200 điểm lô,thành tiền 4.600.000đ và 1.030.000đ tiền đề, xiên, đít, tổng cộng 5.630.000đ. Phan Thị T được hưởng 406.000đ tiền hoa hồng từ Nguyễn Trường S. Phan Thị T giữ lại 170 điểm lô, thành tiền 3.910.000đ để đánh với những người đánh lô.

Đi chiếu kết quả xổ số Miền bắc mở thưởng trong ngày thì số lô, số đề Phan Thị T chuyển đánh với Nguyễn Trường S trúng 10 điểm lô, tính thành tiền: 800.000đ. Số lô Phan Thị T giữ lại đánh với những người đánh đề trúng 20 điểm lô, thành tiền: 1.600.000đ Số tiền đánh bạc trong ngày 11-01-2019 được xác định: Nguyễn Trường S 6.430.000đ, Phan Thị T: 11.940.000đ, Đặng Văn T 2.300.000đ và Lê Thế A 2.060.000đ.

Lần thứ năm vào ngày 12-01-2019:

Đặng Văn T sử dụng thuê bao điện thoại số 0945.975.756 nhắn tin vào số điện thoại 0943.719.982 của Phan Thị T đánh 100 điểm lô, thành tiền 2.300.000đ. Đối chiếu kết quả xổ số Miền bắc mở thưởng trong ngày thì Đặng Văn T không trúng.

Ngoài ra, Phan Thị T còn ghi được cho khách đến đánh đề được 220 điểm lô, tính thành tiền 5.060.000đ; 665.000đ tiền đề, 440.000đ tiền xiên và đít. Như vậy, trong ngày 12/01/2019 Phan Thị T ghi bảng đề được: 320 điểm lô, tính thành tiền 7.360.000đ và 1.105.000đ tiền đề, xiên, đầu đít. Phan Thị T sử dụng số điện thoại 0943.719.982 nhắn tin vào số điện thoại 0376.883.901 của Nguyễn Trường S chuyển đánh 170 điểm lô, tính thành tiền 3.910.000đ và 1.105.000đ tiền đề, xiên, đầu đít, tổng cộng 5.015.000đ . Phan Thị T được hưởng 391.000đ tiền hoa hồng từ Nguyễn Trường S. Phan Thị T giữ lại 150 điểm lô, thành tiền 3.450.000đ để đánh với những người đánh lô.

Đi chiếu kết quả xổ số Miền Bắc mở thưởng trong ngày bảng đề Phan Thị T chuyển đánh với Nguyễn Trường S trúng 30 điểm lô, thành tiền 2.400.000 đ, đầu đít trúng 210.000đ, trúng xiên 400.000đ. Tổng công tiền trúng thưởng là: 3.010.000đ. Số lô Phan Thị T giữ lại đánh với những người đánh đề không trúng thưởng.

Số tiền đánh bạc trong ngày 12-01-2019 được xác định: Nguyễn Trường S: 8.025.000đ; Phan Thị T: 11.475.000đ; Đặng Văn Thanh: 2.300.000đ. Lần thứ sáu vào ngày 13-01-2019:

Lê Anh Q sử dụng thuê bao điện thoại số 0914.823.838 nhắn tin vào số điện thoại 0986.804.456 của Tăng Hoài N đánh 200 điểm Lô, thành tiền 4.600.000đ và 500.000đ tiền Xiên 3, tổng cộng là 5.100.000đ. Đối chiếu kết quả xổ số Miền Bắc trong ngày thì Lê Anh Q không trúng, Phan Thị T ghi bảng đề cho khách đến đánh đề được 155 điểm Lô, thành tiền 3.565.000đ; 375.000đ tiền Đề và 30.000đ tiền Xiên, tổng cộng 3.970.000đ.

Phan Thị T sử dụng số điện thoại 0943.719.982 của mình nhắn tin vào số điện thoại 0376.883.901 của Nguyễn Trường S chuyển đánh 105 điểm Lô, thành tiền 2.415.000đ và 405.000đ tiền Đề, Xiên, tổng cộng 2.820.000đ. Phan Thị T được hưởng 186.000đ tiền hoa hồng từ Nguyễn Trường S. Phan Thị T giữ lại 50 điểm lô, thành tiền 1.150.000đ để đánh với những người đánh lô.

Đi chiếu kết quả xổ số Miền bắc mở thưởng ngày 13/01/2019 thì bảng đề Phan Thị Tchuyển đánh với Nguyễn Trường S trúng 45 điểm lô, thành tiền 3.600.000đ. Số lô Phan Thị T giữ lại đánh với những người đánh đề trúng 10 điểm lô, tính thành tiền 800.000đ.

Số tiền đánh bạc trong ngày 13/01/2019 được xác định: Nguyễn Trường S 6.420.000đ, Phan Thị T: 8.370.000đ; Tăng Hoài N 5.100.000đ và Lê Anh Q5.100.000đ.

Lần thứ bảy vào ngày 14-01-2019:

Tăng Hoài N ghi lô, đề của: Lê Anh Q 350 điểm lô, thành tiền 8.050.000đ; Nguyễn Vũ L 500.000đ tiền đề; Nguyễn Hữu Ư 50 điểm lô, thành tiền 1.150.000đ cùng với 150 điểm lô và 300.000đ tiền đề do Nam tự đánh. Tổng cộng số tiền lô, đề Tăng Hoài N ghi của Quyền, Lân, Ước và tự đánh là 13.450.000đ.

Tăng Hoài N sử dụng số điện thoại 0986.804.456 của mình nhắn tin vào số điện thoại 0376.883.901 của Nguyễn Trường S để chuyển toàn bộ số tiền 13.450.000đ cho S, Tăng Hoài N được hưởng, 860.000đ tiền hoa hồng từ Nguyễn Trường S. Đối chiếu kết quả xổ số Miền bắc mở thưởng ngày 14/01/2019 thì số lô, đề Tăng Hoài N chuyển đánh với Nguyễn Trường S không trúng thưởng.

Phan Thị T ghi bảng đề cho người đánh đề gồm bao: 270 điểm Lô, thành tiền 6.210.000đ; 155.000đ tiền Đề; 170.000đ tiền Xiên và 40.000đ tiền Đít, tổng cộng 6.575.000đ. Phan Thị T sử dụng số điện thoại 0943.719.982 nhắn tin vào số điện thoại 0376.883.901 của Nguyễn Trường S chuyển đánh 130 điểm Lô, thành tiền 2.990.000đ và 365.000đ tiền Đề, Xiên. Phan Thị T được hưởng 203.000đ tiền hoa hồng từ Nguyễn Trường S. Phan Thị T giữ lại 140 điểm Lô, thành tiền 3.220.000đ để đánh với những người đánh lô.

Đi chiếu kết quả xổ số Miền bắc mở thưởng ngày 14/01/2019 thì số lô, số đề, xiên Phan Thị T chuyển đánh với Nguyễn Trường S không trúng thưởng. Số lô Phan Thị T giữ lại đánh với những người đánh lô, đề trúng 50 điểm lô, thành tiền 4.000.000đ.

Số tiền đánh bạc trong ngày 14/01/2019 được xác định: Nguyễn Trường S: 16.805.000đ; Phan Thị T: 10.575.000đ; Tăng Hoài N 13.450.000đ; Lê Anh Q 8.050.000đ; Nguyễn Hữu Ư 1.150.000đ và Nguyễn Vũ L 500.000đ.

Lần thứ tám vào ngày 15-01-2019:

Phan Thị T nhận ghi bảng đề cho người đánh đề bao gồm: 110 điểm lô, thành tiền 2.5300.000đ và 430.000đ tiền đề, xiên, đầu, đít, tổng cộng 2.960.000đ, trong lúc chưa kịp chuyển cho chủ đề thì bị phát hiện.

Tăng Hoài N nhận ghi lô, đề cho Dương Đức M 70 điểm lô, thành tiền 1.610.000đ và 200.000đ tiền xiên. Ngoài ra Tăng Hoài N ghi cho những người khác 300.000đ tiền đề. Tổng cộng số tiền ghi bảng đề của Tăng Hoài N là 2.110.000đ. Tăng Hoài N sử dụng số điện thoại 0986.804.456 của mình nhắn tin vào số điện thoại 0376.883.901 của Nguyễn Trường S chuyển toàn bộ số lô và số đề ghi được, tương ứng với 2.110.000đ, trong khi chưa có kết quả mở thưởng xổ số Miền bắc thì bị phát hiện.

Số tiền đánh bạc trong ngày 15-01-2019 của từng người được xác định là: Nguyễn Trường S 2.110.000đ, Phan Thị T2.960.000đ, Tăng Hoài N 2.110.000đ và Dương Đức Minh 1.810.000đ.

Cáo trạng số 25/CT-VKSTXKA ngày 25 tháng 4 năm 2019, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã K đã truy tố Nguyễn Trường S, Phan Thị T về tội Đánh bạc theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự; Tăng Hoài N, Lê Anh Q về tội Đánh bạc theo quy định tại Khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự .

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 36/2019/HSST ngày 08/8/2019, Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh đã áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54, khoản 2 Điều 35, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Trường S 20 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo thi hành án, nhưng được trừ thời gian đã bị tạm giamtừ ngày 22-01-2019 đến ngày 19-4-2019. Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Trường S số tiền 15.000.000 đồng Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s, n khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54, khoản 2 Điều 35, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt Phan Thị T 18 tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo thi hành án. Phạt bổ sung bị cáo Phan Thị T số tiền 10.000.000 đồng.

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, khoản 2 Điều 35, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt Tăng Hoài N 07 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo thi hành án, nhưng được trừ thời gian đã bị tạm giam từ ngày 22-01-2019 đến ngày 19-4-2019. Phạt bổ sung bị cáo Tăng Hoài N số tiền 10.000.000 đồng.

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, khoản 2 Điều 35, Điều 36, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt Lê Anh Q 12 tháng cải tạo không giam giữ, thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức, được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Phạt bổ sung bị cáo Lê Anh Q số tiền 15.000.000 đồng

Tch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền làm phương tiện phạm tội và tiền thu lợi bất chính đối với bị cáo và người có Qlợi, nghĩa vụ liên quan cụ thể như sau: Tịch thu bị cáo Nguyễn Trường S số tiền 25.170.000 đồng. Tịch thu bị cáo Phan Thị Tsố tiền 9.520.000 đồng. Tịch thu bị cáo Tăng Hoài N số tiền 5.960.000 đồng . Tịch thu người có Qlợi, nghĩa vụ liên quan Lê Thế A số tiền 1.140.000 đ.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng khác, án phí và Q kháng cáo của người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

Ngày 09/9/2019 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 37/QĐ-VKS- P7 kháng nghị phần xử lý vật chứng đối với các bị cáo Nguyễn Trường S, Phan Thị T, Tăng Hoài N, Lê Anh Qcủa bản án hình sự sơ thẩm số 36/2019/HSST ngày 08/8/2019 của Toà án nhân thị xã H.

Tại phiên Tòa phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh vẫn giữ nguyên quan điểm kháng nghị, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị số 37/QĐ-VKS- P7 ngày 09/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh. Áp dụng điểm b khoản 1 điều 355, điểm d khoản 1 điều 357 BLTTHS; điểm a, b khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 36/2019/HSST ngày 08/8/2019 của Tòa án nhân dân thị xã H, tịch thu số tiền các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội để nộp Ngân sách nhà nước. Cụ thể: Tịch thu từ bị cáo Nguyễn Trường S: 20.037.000đ; Phan Thị T: 56.795.000đ; Tăng Hoài N: 5.400.000đ; Lê Anh Quyền: 13.150.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đối với bản sơ thẩm được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 336, Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự nên được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2]. Về nội dung kháng nghị:

Tại phiên Tòa phúc thẩm, các bị cáo Noàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình, có căn cứ để xác định số tiền cụ thể các lần phạm tội của các bị cáo như sau:

Lần thứ nhất vào ngày 08/01/2019: Phan Thị T ghi lô đề cho những người khác tổng số tiền: 5.560.000đ và chuyển qua tin nhắn cho Nguyễn Trường S toàn bộ số tiền đó và được hưởng 428.000đ tiền hoa hồng. Bảng đề T chuyển cho S trúng 6.400.000đ.

Lần thứ hai vào ngày 09/01/2019: Phan Thị T ghi lô, đề cho những người khác được tổng số tiền: 5.465.000đ. T chuyển qua tin nhắn cho S 3.855.000đ để hưởng 249.000đ tiền hoa hồng. T giữ lại 1.610.000đ để đánh bạc với những người ghi lô, đề. Bảng đề T chuyển cho S trúng tổng cộng: 1.500.000đ, số T giữ lại không trúng thưởng Lần thứ ba vào ngày 10/01/2019: Phan Thị T ghi lô, đề được tổng số tiền: 7.620.000đ. T chuyển qua tin nhắn cho S: 4.630.000đ để hưởng 350.000đ tiền hoa hồng, T giữ lại: 2.990.000đ. Bảng đề T chuyển cho S trúng số tiền 1.600.000đ. Số tiền T giữ lại trúng 3.200.000đ.

Lần thứ tư vào ngày 11/01/2019: Phan Thị T ghi lô, đề được tổng số tiền: 9.540.000đ. T chuyển qua tin nhắn cho S 5.630.000đ để hưởng 406.000đ tiền hoa hồng. T giữ lại: 3.910.000đ. Bảng lô, đề T chuyển cho S trúng 800.000đ. Số tiền T giữ lại trúng 1.600.000đ. Trong những người ghi lô đề, xác định được Nguyễn Thế A ghi số tiền: 460.000đ, trúng 1.600.000đ.

Lần thứ năm vào ngày 12/01/2019: Phan Thị T ghi lô, đề được tổng số tiền: 8.465.000đ. T chuyển qua tin nhắn cho S 5.015.000đ để hưởng 391.000đ tiền hoa hồng. T giữ lại: 3.450.000đ. Bảng lô, đề T chuyển cho S trúng tổng cộng: 3.010.000đ. Số tiền T giữ lại không trúng.

Lần thứ sáu vào ngày 13/01/2019: T ghi lô, đề được tổng số tiền: 3.970.000đ. T chuyển qua tin nhắn cho S 2.820.000đ để hưởng 186.000đ tiền hoa hồng. T giữ lại: 1.150.000đ. Bảng lô, đề T chuyển cho S trúng tổng cộng: 3.600.000đ. Số tiền T giữ lại trúng 800.000đ.

Lê Anh Q đánh lô đề với Tăng Hoài N tổng số tiền 5.100.000đ nhưng không trúng thưởng.

Lần thứ bảy vào ngày 14/01/2019: Phan Thị Tghi lô, đề được tổng số tiền: 6.575.000đ. T chuyển qua tin nhắn cho S 3.355.000đ để hưởng 203.000đ tiền hoa hồng. T giữ lại: 3.220.000đ. Bảng lô, đề T chuyển cho S không trúng. Số tiền T giữ lại trúng 4.000.000đ.

Tăng Hoài H ghi lô đề cho những người khác tổng số tiền: 9.700.000đ, trong đó ghi cho Lê Anh Q: 8.050.000đ. Ngoài ra H tự đánh lô đề 3.750.000đ. Tổng số tiền H ghi lô đề cho người khác và tự đánh là 13.450.000đ. H đã chuyển qua tin nhắn cho Nguyễn Trường 13.450.000đ để hưởng 860.000đ tiền hoa hồng. Bảng lô, đề H chuyển cho S không trúng thưởng.

Ngoài ra, ngày 15/01/2019: T ghi lô, đề được tổng số tiền 2.960.000đ, chưa kịp chuyển cho chủ đề thì bị phát hiện. H ghi lô, đề được tổng số tiền 2.110.000đ và chuyển qua tin nhắn toàn bộ cho S nhưng chưa chuyển tiền, chưa có kết quả mở thưởng thì bị phát hiện.

Vai trò của các bị cáo trong vụ án được xác định như sau:

Bị cáo Nguyễn Trường S nhận bảng đề từ bị cáo Phan Thị T và bị cáo Tăng Hoài N để trả thưởng cho người trúng thưởng nên là chủ đề; bị cáo Phan Thị T, Tăng Hoài N là đồng phạm với bị cáo S khi chuyển bảng đề cho S. Đồng thời bị cáo T là chủ đề trong các lần giữ lại tiền để trực tiếp đánh với những người ghi lô, đề; bị cáo N còn là người trực tiếp đánh đề với bị cáo S. Bị cáo Q là người trực tiếp đánh đề với bị cáo S.

Số tiền các bị cáo T, H chuyển qua tin nhắn cho S cũng như số tiền bị cáo T giữ lại để đánh lô đề là công cụ phương tiện phạm tội; số tiền hoa hồng mà bị cáo T, bị cáo N được hưởng cũng như số tiền trúng thưởng là thu lợi bất chính nên phải tịch thu từ các bị cáo để sung quỹ Nhà nước theo quy định tại điểm a, b khoản 1 điều 47 BLHS; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo Phan Thị T, Tăng Hoài N đều thừa nhận chưa chuyển tiền ghi lô đề cho bị cáo Nguyễn Trường S; bị cáo Nguyễn Trường Schưa chuyển tiền trúng thưởng cho bị cáo T; bị cáo Lê Anh Qchưa chuyển tiền ghi lô đề cho bị cáo Tăng Hoài N; bị cáo S chưa chuyển số tiền mà các bị cáo Phan Thị T, Tăng Hoài N được hưởng hoa hồng. Bị cáo T còn khai nhận đã trả tiền trúng thưởng cho người ghi lô đề, tuy nhiên không có căn cứ để chứng minh bị cáo T đã trả tiền cho những người ghi lô, đề trúng thưởng. Vì vậy, tịch thu số tiền là công cụ phương tiện phạm tội và thu lợi bất chính từ các bị cáo cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Tịch thu từ Phan Thị T5.560.000đ tiền ghi lô đề; tịch thu từ Nguyễn Trường S6.400.000đ tiền trúng lô đề và 428.000đ tiền hoa hồng.

Lần thứ hai: Tịch thu từ Phan Thị T5.465.000đ tiền ghi lô, đề; tịch thu từ Nguyễn Trường S1.500.000đ tiền trúng lô đề và 249.000đ tiền hoa hồng.

Lần thứ ba: Tịch thu từ Phan Thị Tsố tiền 7.620.000đ tiền ghi lô, đề và 3.200.000đ tiền trúng lô, đề. Tịch thu từ Nguyễn Trường S1.600.000đ tiền trúng lô, đề và 350.000đ tiền hoa hồng.

Lần thứ tư: Tịch thu từ Phan Thị T9.540.000đ tiền ghi lô đề và 1.600.000đ tiền trúng lô, đề. Tịch thu từ Nguyễn Trường S800.000đ tiền trúng lô đề và 406.000đ tiền hoa hồng.

Lần thứ năm: Tịch thu từ bị cáo T 8.465.000đ tiền ghi lô đề; Tịch thu từ bị cáo Nguyễn Trường S3.010.000đ tiền trúng lô đề và 391.000đ tiền hoa hồng Lần thứ sáu: Tịch thu từ bị cáo Phan Thị T3.970.000đ tiền ghi lô đề và 800.000đ tiền trúng thưởng. Tịch thu từ bị cáo Nguyễn Trường S3.600.000đ tiền trúng thưởng và 186.000đ tiền hoa hồng. Tịch thu từ Lê Anh Q5.100.000đ tiền đánh lô đề.

Lần thứ bảy: Tịch thu từ Phan Thị T 6.575.000đ tiền ghi lô đề và 4.000.000đ tiền trúng thưởng. Tịch thu từ Nguyễn Trường S 1.063.000đ tiền hoa hồng. Tịch thu từ Lê Anh Q 8.050.000đ, tịch thu từ Tăng Hoài N: 5.400.000đ tiền ghi lô đề.

Như vậy, tổng số tiền phải tịch thu từ bị cáo Phan Thị T: 56.795.000đ; tịch thu từ bị cáo Nguyễn Trường S: 19.983.000đ; tịch thu từ bị cáo Tăng Hoài N: 5.400.000đ; tịch thu từ bị cáo Lê Anh Quyền: 13.150.000đ Tại phần quyết định của bản án sơ thẩm số 36/2019/HSST ngày 08/8/2019 của Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh đã tuyên: Tịch thu từ bị cáo Nguyễn Trường S: 25.170.000đ; tịch thu từ bị cáo Phan Thị T: 9.520.000đ; tịch thu từ bị cáo Tăng Hoài N: 5.960.000đ là chưa chính xác và không tịch thu từ bị cáo Lê Anh Q không đúng Do đó, kháng nghị của VKSND tỉnh Hà Tĩnh đề nghị sửa số tiền phải tịch thu từ bị cáo Nguyễn Trường S, Phan Thị T, Tăng Hoài N và tịch thu từ bị cáo Lê Anh Qlà có căn cứ. Tuy nhiên, ở lần đánh bạc thứ tư, ngày 11/01/2019, bi cáo S thỏa thuận trả cho bị cáo T 406.000đ tiền hoa hồng nhưng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đề nghị tịch thu từ S số tiền 460.000đ là chưa chính xác.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm d khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, b khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 37/QĐ-VKS- P7 ngày 09/9/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh. Sửa phần xử lý vật chứng tại bản án hình sự sơ thẩm số 36/2019/HSST ngày 08/8/2019 của Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh về việc tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền làm phương tiện phạm tội và tiền thu lợi bất chính đối với các bị cáo cụ thể như sau:

Tch thu từ bị cáo Nguyễn Trường S: 19.983.000đ (Mười chín triệu chín trăm tám mươi ba nghìn đồng).

Tch thu từ bị cáo Phan Thị T: 56.795.000đ (Năm mươi sáu triệu bảy trăm chín mươi lăm nghìn đồng).

Tch thu từ bị cáo Tăng Hoài N: 5.400.000đ (Năm triệu bốn trăm nghìn đồng) Tịch thu từ bị cáo Lê Anh Quyền: 13.150.000đ (Mười ba triệu một trăm năm mươi nghìn đồng)

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

311
  • Tên bản án:
    Bản án 140/2019/HS-PT ngày 28/10/2019 về tội đánh bạc
  • Cơ quan ban hành:
  • Số hiệu:
    140/2019/HS-PT
  • Cấp xét xử:
    Phúc thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    28/10/2019
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 140/2019/HS-PT ngày 28/10/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:140/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về