Bản án 140/2018/HNGĐ-ST ngày 08/06/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 140/2018/HNGĐ-ST NGÀY 08/06/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Hôm nay, ngày 08 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 51/2018/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2018 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 132/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 02/5/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 347/2018/QĐST-HNGĐ ngày 22/5/2018, giữa:

1. Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị H, sinh năm 1994.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1996.

Cùng địa chỉ: 4/2, tổ 8, ấp Đ, Xã H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.(Bà H, ông K vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 12/12/2017, bản tự khai, trong quá trình làm việc và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Hoàng Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông K tự nguyện kết hôn và chung sống với nhau vào năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã D, thị xã D, tỉnh T, hôn nhân tự nguyện. Thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc nhưng đến khi sinh con thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do ông K thường xuyên nhậu nhẹt, đánh đập chửi bới bà, không có trách nhiệm với vợ con và thường xuyên vắng nhà. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không thể hòa hợp, không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được Ly hôn với ông K để trả tự do cho nhau.

Về con chung: Có 01 con chung là Nguyễn Hoàng D, sinh ngày 03/8/2016. Ly hôn, bà H xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu D và không yêu cầu ông K phải cấp dưỡng nuôi con chung;

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai, bị đơn ông Nguyễn Văn K trình bày:

Vquan hệ hôn nhân: Ông và bà H tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2016, tại Ủy ban nhân dân xã D, thị xã D, tỉnh T. Quá trình vợ chồng chung sống có hạnh phúc nhưng hay xảy ra mâu thuẫn vợ chồng do ông thường xuyên ăn nhậu, ít chăm lo được cho vợ con. Nay H xin Ly hôn thì ông không đồng ý vì còn thương yêu vợ con, không muốn gia đình đổ vỡ.

Vcon chung: Có 01 cháu tên Nguyễn Hoàng D, sinh ngay 03/8/2016. Nếu Ly hôn, ông đồng ý giao cháu D cho bà H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, tạm thời ông không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

Về thủ tục tố tụng: Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, kể từ khi thụ lý vụ án là phù hợp, đúng với quy định của pháp luật. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vquan hệ hôn nhân: Xét cuộc sống vợ chồng của bà H, ông K không hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được do đó bà H yêu cầu Ly hôn với ông K là có căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hoàng D, sinh ngày 03/8/2016 cho bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời ông K không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không đặt ra xem xét giải quyết.

- Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: bà H phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

* Sau khi nghiên cứu hồ sơ và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thẩm quyền: bà H xin Ly hôn với ông K có địa chỉ cư trú tại: 4/2, tổ 8, ấp Đ, xã H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố B có thẩm quyền giải quyết.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bà H có đơn xin xét xử vắng mặt, ông K đã được tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt nên tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà H, ông K theo quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông K kết hôn với nhau vào năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã D, thị xã D, tỉnh T (theo giấy chứng nhận kết hôn số 32 ngày 20/6/2016) nên xác định là hôn nhân hợp pháp.

Bà H trình bày: Sau khi xây dựng gia đình với nhau, thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc nhưng đến khi sinh con thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do ông K thường xuyên nhậu nhẹt, đánh đập chửi bới bà, không có trách nhiệm với vợ con và thường xuyên vắng nhà. Ông K cũng thừa nhận vợ chồng hay xảy ra mâu thuẫn vợ chồng do ông thường xuyên ăn nhậu, ít chăm lo được cho vợ con nhưng ông không đồng ý vì còn thương yêu vợ con, không muốn gia đình đổ vỡ.

Tòa án đã nhiều lần triệu tập ông K đến làm việc nhưng ông K vẫn vắng mặt không lý do, thể hiện việc ông K không tích cực trong việc hòa giải, hàn gắn quan hệ vợ chồng, không thiết tha cuộc sống hôn nhân với bà H. Qua kết quả xác minh tại nơi cư trú của ông K ngày 26/3/2018 thì địa phương cho biết vợ chồng ông K, H có xảy ra mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã và ông K nhiều lần đánh bà H.

Từ đó cho thấy tình trạng mâu thuẫn giữa vợ chồng bà H, ông K đã đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng thật sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu Ly hôn của bà H, giải quyết cho bà H được Ly hôn với ông K để trả tự do cả hai là phù hợp.

- Về con chung: Có 01 cháu tên Nguyễn Hoàng D, sinh ngày 03/8/2016. Ly hôn, bà H xin trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu D và không yêu cầu ông K phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét thấy: Cháu D còn nhỏ cần có sự chăm sóc của người mẹ để không ảnh hưởng đến tâm sinh lý, điều kiện ổn định phát triển mọi mặt của cháu. Ông K cũng đồng ý giao con cho bà H nuôi dưỡng nên giao cháu D cho bà H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp và tạm thời ông K không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không đặt ra xem xét giải quyết.

- Về án phí: bà H phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B tại phiên tòa phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 227, 228, 233, 235, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84, 110 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu “Ly hôn” của bà Hoàng Thị H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Hoàng Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Văn K.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hoàng D, sinh ngày 03/8/2016 cho bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời, ông K không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông K được quyền đi lại thăm nuôi con chung không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, khi cần thiết hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Hoàng Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B theo biên lai thu số 003963 ngày 28/12/2017.

5. Bà Hoàng Thị H và ông Nguyễn Văn K vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 140/2018/HNGĐ-ST ngày 08/06/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:140/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về