Bản án 139/2020/HSST ngày 11/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 139/2020/HSST NGÀY 11/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 128/2020/HSST ngày 09 tháng 7 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phạm Anh T; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1977; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: 149 HB, phường HB, quận HK, Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Họ tên Cha: Phạm Đức M (sinh năm: 1951); Họ tên Mẹ: Trần Thị Xuân T (đã chết); Gia đình có 05 anh em, bị can là con thứ hai. Vợ: Nguyễn Ngọc T (sinh năm: 1979) đã ly hôn; Có 01 con sinh năm 2004. Tiền án: 02 tiền án

- Ngày 18/5/2001, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 04 năm tù về tội Cướp giật tài sản, thời hạn tù tính từ ngày 09/11/2000 (Bản án số 302/HSST). Xác minh thi hành án xác định chưa nộp án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự và tiền thu lời bất chính – Án tích chưa được xóa.

- Ngày 23/8/2013, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xử phạt 27 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, thời hạn tù tính từ ngày 29/5/2013 (Bản án số 351/HSST) ra trại ngày 29/5/2015, đã nộp án phí ngày 25/3/2014 – Án tích đã được xóa.

Nhân thân: Năm 2009, Công an phường PT, quận HK, Hà Nội lập hồ sơ đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Sơn Tây, Hà Nội. Tạm giữ: 24/4/2020 - Tạm giam: 29/4/2020. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số I - Công an TP Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Mai Quốc Y; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1973; Giới tính: Nam; HKTT: 50 ĐDT, phường HB, quận HK, TP Hà Nội; Nơi ở: Số 82 MM, phường HB, quận HK, TP Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: 3/12; Họ tên Cha: Mai Văn  (sinh năm: 1934); Họ tên Mẹ: Nguyễn Thị Kim L (sinh năm: 1936); Gia đình có 06 chị em, bị can là con thứ sáu.Tiền án: 03 tiền án

- Ngày 19/12/1991, Tòa án nhân dân quận HK, thành phố Hà Nội xử phạt 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thủ thách 20 tháng thử thách về tội Trộm cắp tài sản của công dân (trị giá tài sản không xác định được) (Bản án số AS.398) – Án tích đã được xóa

- Ngày 31/8/1993, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 42 tháng tù về tội Cướp tài sản của công dân, buộc phải chấp hành hình phạt 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo tại Bản án số AS.398, tổng hợp hình phạt chung là 52 tháng tù (Bản án số AS.352), ra trại ngày 25/11/1996; xác minh đã nộp án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm – Án tích đã được xóa.

- Ngày 29/3/2000, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao xử phạt 11 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (Bản án số AS.1500), ra trại ngày 20/10/2009; xác minh chưa nộp 50.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 20.000.000 đồng tiền phạt theo Quyết định thi hành án số 349/03.10.2000 – Án tích chưa được xóa.

Nhân thân: Năm 2010 – 2013, cai nghiện tập trung tại Trung tâm cai nghiện số I Ba Vì, TP Hà Nội.

- Ngày 02/3/1998, Công an quận HK, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

- Ngày 28/9/2014, Công an phường Hàng Buồm, quận HK, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi lăng mạ người thi hành công vụ. Tạm giữ: 22/4/2020

- Tạm giam: 28/4/2020 theo Quyết định tạm giữ số: 122/ngày 22.4.2020, lệnh tạm giam số: 90/28.4.2020 của Công an quận HK trong vụ án hình sự “tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số I - Công an TP Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Nguyễn Bách T; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1978; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: số 77/624/16 MK, phường VT, quận HBT, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Họ tên Cha: Nguyễn Văn D (đã chết); Họ tên Mẹ: Nguyễn Thị T (sinh năm: 1955); Bị can là con duy nhất; Vợ: Nguyễn Thị P (sinh năm: 1979); Có 02 con sinh năm 2002 và 2007; Nhân thân:

- Ngày 26/10/2008, Công an phường TM, quận HM, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. - Năm 2009 – 2013, cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm cai nghiện số 7 Ba Vì, TP Hà Nội. Tạm giữ: 16/6/2020 - Tạm giam: 19/6/2020. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số I - Công an TP Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Anh Bùi Mạnh H (sinh năm: 1988, HKTT: Tổ 4 BĐ, phường BĐ, quận LB, thành phố Hà Nội). Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 23/4/2020, anh Bùi Mạnh H (sinh năm: 1988, HKTT: Tổ 4 BĐ, phường BĐ, quận LB, thành phố Hà Nội) đến Công an phường HB, quận HK, thành phố Hà Nội trình báo sự việc anh bị mất trộm một chiếc xe đạp vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 20/4/2020 tại trước cửa số nhà 157 HB, phường HB, quận HK, thành phố Hà Nội và cung cấp hình ảnh camera ghi nhận lại vụ việc trộm cắp. Đến 21 giờ ngày 23/4/2020, Phạm Anh T đến Công an phường HB đầu thú, khai nhận đã cùng Nguyễn Bách T và Mai Quốc Y trộm cắp chiếc xe đạp tại trước cửa số nhà 157 HB, phường HB, quận HK, thành phố Hà Nội ngày 20/4/2020.

Cơ quan điều tra đã tiến hành dẫn giải Phạm Anh T xác định vị trí nơi trộm cắp tài sản, nơi bán tài sản, đồng thời thu hồi chiếc xe đạp mà Phạm Anh T, Mai Quốc Y, Nguyễn Bách T đã bán cho chị Nguyễn Thị Q (sinh năm 1971, nơi cư trú: số 40 ngõ 3 đường HM, phường TĐ, quận HBT, thành phố Hà Nội).

Ngày 28/4/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Công an quận HK kết luận chiếc xe đạp màu đồng nhãn hiệu TOURING MARKROSA đã qua sử dụng có giá trị: 5.000.000 đồng (năm triệu đồng).

Ti Cơ quan điều tra, Phạm Anh T khai nhận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 20/4/2020, Nguyễn Bách T điều khiển xe máy Honda Wave màu đỏ đen, biển kiểm soát: 30F7-5680 và Mai Quốc Y đi bộ tới nhà Phạm Anh T ở số 149 HB, quận HK, TP Hà Nội để nói chuyện. Tại đây, T, T và Y nhìn thấy chiếc xe đạp màu đồng nhãn hiệu TOURING MARKROSA của anh Bùi Mạnh H dựng trước cửa số nhà 157 HB không khóa liền nảy sinh ý định trộm cắp. T, T và Y nói chuyện và thống nhất cùng nhau trộm cắp tài sản, T đứng nói chuyện với người đàn ông bán hàng nước gần đó để che chắn và đánh lạc hướng còn T trộm cắp xe đạp và mang đến đầu ngã tư HB – HĐ đưa cho Y. Sau khi trộm cắp được, Y điều khiển xe đạp bỏ đi còn T quay lại lấy xe máy và chở T đuổi theo Y. Khi đến gần ngã tư TT, BT, T và T gặp Y đang đạp xe. T nắm lấy tay Y để T điều khiển xe máy kéo Y cùng chiếc xe đạp đến khu vực chợ Trời. Tại đây, cả ba bán chiếc xe đạp trên cho chị Nguyễn Thị Q với giá 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng). T, T và Y chia đều mỗi người nhận 500.000 đồng và đã chi tiêu cá nhân.

Ngày 22/4/2020, Mai Quốc Y bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận HK bắt giữ và khởi tố về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại Cơ quan điều tra, Mai Quốc Y khai nhận: Ngày 20/4/2020, Mai Quốc Y đã cùng Phạm Anh T, Nguyễn Bách T trộm cắp tài sản là chiếc xe đạp màu đồng nhãn hiệu TOURING MARKROSA tại trước cửa số nhà 157 HB, phường HB, quận HK, thành phố Hà Nội.

Sau khi bán tài sản trộm cắp, Y được chia 500.000 đồng và đã chi tiêu cá nhân.

Sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 20/4/2020, Nguyễn Bách T đã bỏ trốn khỏi nơi cư trú. Đến ngày 16/6/2020, Nguyễn Bách T đã đến Cơ quan công an để đầu thú và khai nhận: Ngày 20/4/2020, Nguyễn Bách T đã cùng Phạm Anh T, Mai Quốc Y trộm cắp tài sản là chiếc xe đạp màu đồng nhãn hiệu TOURING MARKROSA tại trước cửa số nhà 157 HB, phường HB, quận HK, thành phố Hà Nội. Sau khi bán tài sản trộm cắp, T được chia 500.000 đồng và đã chi tiêu cá nhân.

Ngày 09/6/2020, Cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe đạp màu đồng nhãn hiệu TOURING MARKROSA cho anh Bùi Mạnh H, anh H không có yêu cầu đề nghị gì về dân sự.

Đi với chị Nguyễn Thị Q là người đã mua chiếc xe đạp từ Phạm Anh T, Mai Quốc Y, Nguyễn Bách T với giá 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng) nhưng chị Q không biết đó là tài sản trộm cắp nên Cơ quan điều tra không xử lý. Còn số tiền 1.500.000 đồng, chị Q không có yêu cầu T, n và T bồi thường.

Đi với chiếc xe máy Honda Wave màu đỏ đen, biển kiểm soát: 30F7-5680 do Nguyễn Bách T điều khiển ngày 20/4/2020, qua xác minh xác định chủ sở hữu chiếc xe trên là bà Nguyễn Thị T, mẹ của T. Bà T cho T mượn sử dụng vào ngày 20/4/2020 nhưng không biết việc T sử dụng chiếc xe trên để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Ti bản cáo trạng số 122/CT-VKS ngày 07/7/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận HK đã truy tố Phạm Anh T, Mai Quốc Y và Nguyễn Bách T về tội “Trộm cắp tài sản” qui định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Ti phiên toà : Các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như trong quá trình điều tra và nội dung bản cáo trạng đã nêu. Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố về hành vi, tội danh và điều luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo T từ 12 tháng đến 15 tháng tù, bị cáo Y từ 12 tháng đến 15 tháng tù; bị cáo T từ 09 tháng đến 12 tháng tù theo quy định tại khoản 1 Điều 173, BLHS 2015; bị cáo T và bị cáo Y còn chịu thêm hình phạt do tái phạm. Về trách nhiệm dân sự: Không.

Các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng nêu, nói lời sau cùng ăn năn hối cải, xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an quận HK; Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên quận HK trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Tại phiên tòa, người bị hại xin vắng mặt, người làm chứng vắng mặt. Xét thấy việc vắng mặt của các đương sự không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về định tội và hình phạt: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, vật chứng, kết quả định giá cùng các tài liệu chứng cứ khác mà cơ quan điều tra đã thu thập được trong hồ sơ vụ án và nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận HK đã truy tố có đủ cơ sở kết luận:

Khong 10 giờ 30 phút ngày 20/4/2020, Phạm Anh T, Mai Quốc Y và Nguyễn Bách T cùng thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc xe đạp màu đồng nhãn hiệu TOURING MARKROSA có giá trị 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) của anh Bùi Mạnh H tại trước cửa số 157 HB, phường HB, quận HK, Hà Nội.

Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đây là tình tiết để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng:

Các bị cáo đã có sự bàn bạc về việc phạm tội là những đồng phạm, có sự phối hợp trong việc trộm cắp tài sản của người bị hại do đó bị áp dụng tình tiết “Phạm tội có tổ chức” theo điểm a khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.

Đối với bị cáo T và T là người trực tiếp trộm cắp tài sản nên phải chịu hình phạt cao hơn bị cáo Y.

Đi với bị cáo T: Ngày 18/5/2001, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 04 năm tù về tội Cướp giật tài sản, thời hạn tù tính từ ngày 09/11/2000 (Bản án số 302/HSST). Xác minh thi hành án xác định chưa nộp án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự và tiền thu lời bất chính – Án tích chưa được xóa lần phạm tội này áp dụng tình tiết tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS 2015.

Đi với bị cáo Y: Ngày 29/3/2000, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao xử phạt 11 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (Bản án số AS.1500), ra trại ngày 20/10/2009; xác minh chưa nộp 50.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 20.000.000 đồng tiền phạt theo Quyết định thi hành án số 349/03.10.2000 – Án tích chưa được xóa lần phạm tội này áp dụng tình tiết tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS 2015.

Xét các bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận được tài sản không có yêu cầu bồi thường dân sự nào khác nên không xét.

[5] Về xử lý vật chứng của vụ án: Đối với chiếc xe máy Honda Wave màu đỏ đen, biển kiểm soát: 30F7-5680 do Nguyễn Bách T điều khiển ngày 20/4/2020, qua xác minh xác định chủ sở hữu chiếc xe trên là bà Nguyễn Thị T, mẹ của T. Bà T cho T mượn sử dụng vào ngày 20/4/2020 nhưng không biết việc T sử dụng chiếc xe trên để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý vì vậy không xét.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo và người bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: các bị cáo Phạm Anh T, Mai Quốc Y và Nguyễn Bách T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm a khoản 1 Điều 52, điểm h khoản 1 Điều 52 đối với bị cáo Tuấn, bị cáo Yên; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: bị cáo Phạm Anh T 14 (mười bốn) tháng tù giam thời hạn tù tính từ ngày 24/4/2020.

Xử phạt: bị cáo Mai Quốc Y 12 (mười hai) tháng tù giam thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Bách T 10 (mười) tháng tù giam thời hạn tù tính từ ngày 16/6/2020.

* Về trách nhiệm dân sự: không

* Về xử lý vật chứng: không.

Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Phạm Anh Tuấn, Mai Quốc Yên, Nguyễn Bách Tiến mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Áp dụng Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 139/2020/HSST ngày 11/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:139/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về