TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 139/2019/HS-ST NGÀY 14/08/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 14 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 95/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 116/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Phan Đình Q, sinh ngày 23/9/1994. Tại: An Giang. Nơi ĐKHKTT: Ấp TT, xã TL, huyện TB, tỉnh An Giang; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Phan Văn H và bà Nguyễn Thị C; Vợ: Nguyễn Ngọc K, có 01 con sinh năm 2013. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 29/12/2018 và tạm giam cho đến nay; Có mặt.
Bị hại: Ông Nguyễn Tấn L, sinh năm 1985. Địa chỉ: Khu phố a, phường TH, thị xã B, tỉnh Bình Dương; Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1975. Địa chỉ: TT, xã TL, huyện TB, tỉnh An Giang; Có mặt.
Người làm chứng: Nguyễn Ngọc O, Bùi Văn K (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phan Đình Q là công nhân, còn anh Nguyễn Tấn L, sinh năm 1985, ngụ tại phường TH, thị xã B, tỉnh Bình Dương là bảo vệ của Công ty thép NK3, khu công nghiệp ĐA2 thuộc phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương.
Ngày 18/3/2017, do Phan Đình Q đi vệ sinh không đúng nơi quy định nên anh Nguyễn Tấn L đã lập biên bản về việc Q vi phạm nội quy của Công ty thép NK3. Đến khoảng 16 giờ ngày 19/3/2017, trong lúc Q đang ở phòng trọ tại khu phố AH, phường HL, thị xã B, tỉnh Bình Dương thì Q nhớ đến việc bị anh L lập biên bản vi phạm nội quy tại Công ty thép NK3. Lúc này, do bực tức với anh L nên Q lấy 01 con dao, cán bằng gỗ màu đen, lưỡi bằng kim loại dài 30cm ở phòng trọ rồi đi đến Công ty thép NK3 để tìm và chém gây thương tích cho anh L. Đến khoảng 18 giờ ngày 19/3/2017, khi Q đi đến Công ty thép NK3 thì Q thấy anh L đang đứng ở khu vực nhà kho của công ty, Q liền đi đến chỗ anh L đang đứng rồi lấy con dao mang theo cầm trên tay phải chém nhiều nhát (khoảng bốn nhát) vào khuỷu tay trái, vai trái, nách trái và mu bàn tay trái của anh L. Do bị Q chém nên anh L đã nhặt 01 chiếc nẹp bằng gỗ (chiều dài khoảng 01m, chiều ngang 01 cm) đang để dưới nền nhà kho đánh hai cái trúng đầu Q thì thanh nẹp bằng gỗ bị gãy. Liền đó, Q tiếp tục dùng dao chém 01 nhát vào hông trái và 02 cái vào lưng trái của anh L thì anh L liền dùng hai tay chụp lấy tay phải của Q làm cho con dao Q đang cầm trên tay phải rơi xuống đất. Lúc này, anh Nguyễn Ngọc O, sinh năm 1975, ngụ tại phường AL, thị xã HN, tỉnh Đồng Tháp và anh Bùi Văn K, sinh năm 1990, ngụ tại xã HC, huyện CP, tỉnh An Giang đang làm việc gần đó thấy anh L và Q đánh nhau nên chạy đến can ngăn. Sau đó, anh L được bảo vệ của Công ty thép NK3 đưa đi cấp cứu tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương còn Q thì đi về phòng trọ thu gom đồ đạc rồi bỏ trốn. Đen khoảng 20 giờ cùng ngày 19/3/2019, anh Nguyễn Ngọc O đã đến trụ sở Công an phường H, thành phố M trình báo vụ việc, Công an phường H đã thu giữ tang vật là 01 con dao, cán bằng gỗ màu đen, lưỡi bằng kim loại dài 30cm.
Cùng ngày 19/3/2019, Công an phường H đã chuyển hồ sơ vụ việc đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một để xử lý theo thẩm quyền. Ngày 21/3/2017, anh Nguyễn Tấn L có đơn yêu cầu khởi tố vụ án gửi đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
Theo Bản kết luận giám định pháp y số 117/2017/GDPY ngày 27/4/2017 của Trung tâm Pháp y - Sở y tế tỉnh Bình Dương kết luận đối với thương tích của bị hại Nguyễn Tấn L. Kết quả khám thương tích hiện tại: Đa vết thương phần mềm; vết thương mu bàn tay trái 3 x 0,3cm; vết thương khuỷu tay trái 5,5 x 0,1cm; vết thương vai trái 4 x 0,3cm; vết thương nách trái 7 x 0,4cm; vết thương hông trái 12 x 0,3cm; 02 vết thương lưng trái 6 x 0,2cm và 3,5 x 0,3cm, sẹo lành. Kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 12% (mười hai phần trăm) theo bảng tỷ lệ tổn thương cơ thể ban hành kèm theo Thông tư số 20/2014/TT-BYT do Bộ y tế ban hành ngày 12/6/2014.
Ngày 15/01/2019, bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1975, ngụ tại ấp TT, xã TL, huyện TB, tỉnh An Giang (mẹ ruột của Phan Đình Q) đã bồi thường cho anh Nguyễn Tấn L số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) chi phí điều trị thương tích. Hiện tại, anh L không có yêu cầu gì thêm và có đơn bãi nại cho Phan Đình Q.
Đối với 01 con dao, cán bằng gỗ màu đen, lưỡi bằng kim loại dài 30cm là hung khí do Phan Đình Q sử dụng làm công cụ phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một đề nghị tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 chiếc nẹp bằng gỗ (chiều dài khoảng 01m, chiều ngang 01cm) do anh Nguyễn Tấn L sử dụng để đánh trả Phan Đình Q. Do sau khi xảy ra vụ án, hiện trường đã được dọn dẹp Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một không thể thu hồi được thanh nẹp bằng gỗ nói trên.
Cáo trạng số 111/CT-VKS-HS ngày 15/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo Phan Đình Q về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điếm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Phan Đình Q mức hình phạt từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Không đề nghị giải quyết.
Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (một) con dao cán bằng gỗ màu đen, lưỡi bằng kim loại dài 30cm.
Tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Tuy tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội thì Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 có hiệu lực thi hành nhưng mức hình phạt quy định về tội “Cố ý gây thương tích” tại khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 nhẹ hơn khoản 2 Điều 104 của Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13, Khoản 3 Điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi 2017, xem xét áp dụng khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017 khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, bản kết luận giám định pháp y cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Ngày 19/3/2017, Phan Đình Q có hành vi dùng dao bằng kim loại dài 30cm chém liên tiếp nhiều nhát vào bàn tay trái, khuỷu tay trái, vai trái, nách trái, hông trái, lưng trái của bị hại gây thương tích. Do đó, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” với các tình tiết “Dùng hung khí nguy hiểm, có tính chất côn đồ”. Do với tỷ lệ tổn thương cơ thể bị cáo gây ra là 12% nên bị cáo đã phạm vào điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản nhu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an nơi bị cáo gây án. Về nhận thức, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì bản tính hung hăng, xem thường sức khỏe của người bị hại nên đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Ngoài ra, sau khi thực hiện hành vi phạm tội lại lẩn trốn, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ án. Do vậy, đối với bị cáo cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện; cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo đồng thời cũng nhằm phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường chi phí điều trị cho bị hại đồng thời bị hại có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Căn cứ vào nhân thân, tính chất mức độ phạm tội cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo đã bồi thường số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng) chi phí điều trị cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì khác. Ngoài ra bà Nguyễn Thị C không có yêu cầu bị cáo bồi hoàn số tiền đã bồi thường thay nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[7] Về biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) con dao cán bằng gỗ màu đen, lưỡi bằng kim loại dài 30cm là công cụ thực hiện hành vi phạm tội.
[8] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 136, 260, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13; khoản 3 Điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1/ Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Phan Đình Q phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
2/ Về hình phạt: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Phan Đình Q 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/12/2018.
3/ Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét giải quyết.
4/ Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Tịch thu tiêu hủy 01 (một) con dao cán bằng gỗ màu đen, lưỡi bằng kim loại dài 30cm.
(Thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số 123.19 ngày 15/6/2019 giữa Chi cục Thi hành án dân sự và Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một).
5/ Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 139/2019/HS-ST ngày 14/08/2019 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 139/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về