TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 139/2019/HS-ST NGÀY 04/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 04 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 134/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 138/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:
Đoàn Văn H, sinh ngày 16 tháng 7 năm 1990 tại Lạng Sơn. Nơi cư trú: Thôn Q I, xã Q, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 7/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn T (đã chết) và bà Phan Thị L; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Ngày 09/5/2007 bị Công an huyện C, tỉnh Lạng Sơn xử phạt vi phạm hành chính 50.000 đồng về hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác. Ngày 17/4/2016 bị Công an phường C, thành phố L xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, cả 02 lần đã thi hành xong; bị bắt tạm giữ ngày 31/5/2019, tạm giam ngày 03/6/2019 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đến nay. Có mặt.
- Người chứng kiến: Anh Đinh Công L, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 12 giờ 05 phút ngày 31/5/2019, tại khu vực trước cửa số nhà 234, đường B, phường V, thành phố L, Tổ công tác Công an thành phố L trong khi làm nhiệm vụ đã tiến hành dừng xe Taxi biển kiểm soát 12A-092.08 do anh Đinh Công L, trú tại xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn điều khiển hướng đường B - Sân vận động Đ; phát hiện trên xe có Đoàn Văn H có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma tuý, Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra, phát hiện trong túi bên trái quần bò đang mặc của Đoàn Văn H có 01 túi nilon bên trong chứa 04 viên nén màu hồng và chất tinh thể màu trắng. Đoàn Văn H khai nhận số chất trên đều là ma tuý “đá” và “ngựa”, Hai tàng trữ để sử dụng. Việc bắt quả tang có anh Đinh Công L chứng kiến. Khám xét khẩn cấp nơi ở của Đoàn Văn H thu giữ 01 bình thuỷ tinh bên trong có 01 lọ thuỷ tinh có nắp nhựa màu đỏ gắn hai ống hút nhựa.
Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã ra Quyết định trưng cầu giám định tang vật thu giữ của Đoàn Văn H. Tại kết luận giám định số 188/KL-PC09 ngày 03/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: 04 viên nén màu hồng đều là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng 0,389gam; chất tinh thể rắn, màu trắng là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng 0,139gam. Tổng khối lượng cả 02 loại: 0,528 gam.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L, Đoàn Văn H khai nhận: Bản thân sử dụng ma túy tổng hợp từ năm 2017 đến nay, hình thức hút qua bình vòi, thường xuyên tàng trữ ma tuý để sử dụng. Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 31/5/2019, Đoàn Văn H một mình đi đến đường P, phường H để tìm mua ma tuý về sử dụng, Đoàn Văn H gặp và mua với một nam thanh niên tên Q (không rõ họ, địa chỉ) 800.000 đồng ma tuý đá và ngựa, được 01 túi nilon bên trong có 04 viên nén màu hồng và chất tinh thể màu trắng. Sau khi mua được ma túy, Đoàn Văn H cất trong túi quần bò phía trước rồi ra đường B bắt Taxi về nhà, khi xe Taxi đi được một đoạn thì bị lực lượng Công an bắt quả tang.
Tại Cáo trạng số 136/QĐ-VKSTP ngày 12 tháng 8 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố Đoàn Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Đoàn Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên nội dung quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đoàn Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Đoàn Văn H từ 15 đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản riêng; về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được đựng trong 01 phong bì đã niêm phong; trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động đã thu giữ vì không liên quan đến hành vi phạm tội; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét lời khai của bị cáo Đoàn Văn H tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng và những chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ căn cứ để xác định: Hồi 12 giờ 45 phút ngày 31/5/2019, tại khu vực trước cửa số nhà 234, đường B, phường V, thành phố L khi Đoàn Văn H đang tàng trữ 01 túi nilon bên trong có 04 viên nén màu hồng và chất tinh thể rắn, màu trắng thì bị Công an thành phố L phát hiện, bắt quả tang. Kết quả giám định kết luận: 04 viên nén màu hồng đều là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng 0,389gam; chất tinh thể rắn, màu trắng là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng 0,139gam. Tổng khối lượng cả 02 loại là 0,528 gam. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Đoàn Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 136/QĐ-VKSTP ngày 12 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do vậy, hành vi của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm trước pháp luật.
[3] Để có căn cứ quyết định hình phạt, ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, cần xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đây là 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, cần xem xét cho bị cáo được hưởng; về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng. Tuy nhiên, ngày 09/5/2007 bị Công an huyện C, tỉnh Lạng Sơn xử phạt vi phạm hành chính 50.000 đồng về hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác. Ngày 17/4/2016 bị Công an phường C, thành phố L xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, cả 02 lần đã thi hành xong, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện mà tiếp tục có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thể hiện bị cáo là đối tượng có nhân thân xấu, coi thường pháp luật.
[5] Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, yếu tố về nhân thân, cần xét xử bị cáo mức án nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục bị cáo và đe, phòng ngừa chung.
[6] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh ngày 03/6/2019 xác định bị cáo không có nghề nghiệp và không có tài sản riêng, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 phong bì niêm phong mẫu vật ma túy còn lại sau giám định; 01 bình thủy tinh, bên trong có 01 lọ thủy tinh gắn 02 ống hút nhựa, đây là vật Nhà nước cấm lưu hành và là công cụ để sử dụng ma túy, căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc điện thoại di động hiệu NOKIA đã thu giữ, xét thấy bị cáo không sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội, áp dụng khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, trả lại cho bị cáo.
[8] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung Ngân sách Nhà nước theo khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[9] Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo và các vấn đề khác khi giải quyết vụ án là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.
[10] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[11] Đối với người có tên Q, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, kết quả: Tại khu vực đường P, phường H, thành phố L không có nam thanh niên tên Q khoảng 35 tuổi. Do vậy không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý trong vụ án.
[12] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đoàn Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đoàn Văn H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 31/5/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
3. Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì đã niêm phong; 01 bình thủy tinh, bên trong có 01 lọ thủy tinh gắn 02 ống hút nhựa.
- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu NOKIA, màu đỏ, số IMEI 1: 357263/05/356204/0; số IMEI 2: 357260/05/356205/7.
(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn được mô tả chi tiết theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 01 tháng 8 năm 2019).
4. Về án phí: Bị cáo Đoàn Văn H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung Ngân sách Nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 139/2019/HS-ST ngày 04/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 139/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về