Bản án 139/2017/HS-ST ngày 22/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 139/2017/HS-ST NGÀY 22/12/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 137/2017/HS-ST ngày 23 tháng 11 năm 2017, theo Q định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 142/2017/HSST- QĐ ngày 08 tháng 12 năm 2017, đối với bị cáo:

Trần Văn Q, sinh năm 1988; nơi cư trú: Thôn X, xã Đ, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hoá: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; bố đẻ Trần Duy K, mẹ đẻ Nguyễn Thị H, vợ là Dương Thị P và có 01 con; tiền án: Có 01 tiền án, tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 34/2014/HSST ngày 18/6/2014, Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc xử phạt bị cáo 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/7/2016; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/8/2017 cho đến nay (có mặt).

Ngưi có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bùi Văn S, sinh năm 1991; nơi cư trú: Thôn M, xã Y, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Trần Văn Q bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 12/8/2017, tại đường Nguyễn Viết Xuân, thuộc khu 1, phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc tổ công tác phòng chống ma túy - Công an thành phố Vĩnh Yên bắt quả tang Trần Văn Q có hành vi bán trái phép chất ma túy cho đối tượng nghiện ma túy là Bùi Văn S.

Tang vật thu giữ gồm có: Thu tại tay trái của Bùi Văn S 01 gói giấy bên trong chứa chất bột màu trắng, S khai nhận đó là ma tuý heroine vừa mua được của Q, vật chứng được niêm phong có ký hiệu A1; thu tại tay trái của Trần Văn Q số tiền 120.000đ, Q khai nhận đó là tiền lời do bán ma tuý cho S mà có.

Tại kết luận giám định số: 884/KLGĐ ngày 16/8/2017, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Chất bộ màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất loại heroine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,0603 gam không kể bao bì. Khối lượng heroine có trong 0,0603 gam mẫu là 0,0175 gam”.

Về nguồn gốc số ma túy đã thu giữ, Trần Văn Q khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 12/8/2017, tại khu vực đường Nguyễn Viết Xuân, thuộc khu 1, phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Bùi Văn S có hỏi mua của Q 01 gói ma túy heroine với giá 300.000đ. Hai bên thỏa thuận, S sẽ đưa trước cho Q 200.000đ, còn 100.000đ khi nào nhận được ma túy thì sẽ đưa tiền. Q cầm tiền đi bộ một mình đến một ngõ nhỏ trên đường Trần Quốc Tuấn, thuộc phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên mua 01 gói ma túy heroine của một người nam giới không quen biết với giá 180.000đ, còn thừa 20.000đ. Q cầm gói ma túy quay lại khu vực đường Nguyết Viết Xuân đưa cho S và lấy nốt số tiền 100.000đ thì bị Công an bắt quả tang như đã nêu trên.

Ti Cáo trạng số: 141/KSĐT-MT ngày 21/11/2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã truy tố Trần Văn Q về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa, bị cáo Trần Văn Q khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Bùi Văn S vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra đã khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 12/8/2017, tại đường Nguyễn Viết Xuân, thuộc khu 1, phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Bùi Văn S có hỏi mua của Trần Văn Q 01 gói ma túy heroine với giá 300.000đ. Thỏa thuận S đưa trước cho Q 200.000đ, còn 100.000đ khi nào có ma túy thì đưa. Q cầm tiền đi đâu đó một lúc rồi quay lại đưa gói ma túy cho S. S cầm gói ma túy và đưa nốt số tiền 100.000đ cho Q thì bị Công an bắt quả tang và niêm phong tang vật (bút lục 19 và từ bút lục số 59 - 64).

Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra khai nhận phù hợp với nội dung Cáo trạng đã nêu trên (bút lục 19, 67, 68 và 70).

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên Q định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn Q từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù. Áp dụng khoản 1 Điều 41 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu huỷ toàn bộ bao gói ma túy còn lại sau giám định; tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 120.000đ đã thu giữ của bị cáo Trần Văn Q.

Bị cáo Trần Văn Q không bào chữa và tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Lời khai nhận tội nêu trên của bị cáo Trần Văn Q tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:

Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 12/8/2017, tại đường Nguyễn Viết Xuân, thuộc khu 1, phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, bị cáo Trần Văn Q có hành vi bán trái phép chất ma túy cho đối tượng nghiện ma túy là Bùi Văn S thì bị tổ công tác phòng chống ma túy - Công an thành phố Vĩnh Yên phát hiện và bắt quả tang. Tang vật thu giữ được giám định là ma túy lẫn tạp chất loại heroine, khối lượng là 0,0603 gam. Khối lượng heroine có trong 0,0603 gam là 0,0175 gam”.

Hành vi nêu trên của bị cáo Trần Văn Q đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự có khung hình phạt tù từ 02 đến 07 năm tù.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người; gây ra một lớp người nghiện trong xã hội làm tác hại cho chính bản thân người nghiện và gia đình họ cũng như cho cộng đồng nói chung. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 07 năm tù nên theo quy định tại khoản 3 Điều 8 của Bộ luật Hình sự thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm nghiêm trọng.

Tc khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân xấu, đã có 01 tiền án về hành vi cùng loại tội, tiền án đó chưa được xóa án tích lại tái phạm. Đây là tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự. Trong vụ án này, mặc dù số lượng ma túy mua bán trái phép là không lớn nhưng hành vi được thực hiện với lỗi cố ý, động cơ là thu lời bất chính, hiện tại trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên các tội phạm về ma túy có chiều hướng gia tăng, đây là nguyên nhân làm mất ổn định tình hình an ninh chính trị tại địa phương và phát sinh các tội phạm khác trong xã hội. Do đó, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

Khi Q định hình phạt có xem xét đến các tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” để giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự.

Đi với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Bùi Văn S là đối tượng nghiện ma túy, mục đích mua túy để sử dụng; hành vi tàng trữ dưới 0,1 gam ma túy heroine chưa đủ định lượng cấu thành tội phạm nên Cơ quan điều tra đã ra Q định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền phạt 1.500.000đ là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với người bán ma túy cho Q ở một ngõ nhỏ của đường Trần Quốc Tuấn, thuộc phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên. Q khai không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý là đúng pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo không có tài sản và thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên Hội đồng xét xử Q định miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về vật chứng: Đối với bao gói ma túy còn lại sau giám định không có giá trị sử dụng cần tịch thu để tiêu huỷ. Đối với số tiền 120.000đ đã thu giữ của bị cáo, đây là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu sung quỹ Nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 41 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn Q phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn Q 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 12/8/2017).

Áp dụng khoản 1 Điều 41 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 120.000đ (Một trăm hai mươi nghìn đồng) đã thu giữ của bị cáo Trần Văn Q. Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ bao gói còn lại sau giám định (Đặc điểm tang vật như Biên bản bàn giao vật chứng ngày 04/12/2017).

Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Trần Văn Q phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 139/2017/HS-ST ngày 22/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:139/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về