Bản án 1387/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1387/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 678/2019/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2019 về việc “Tranh chấp về ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 417/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 358/2019/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 11 năm 2019 giữa:

Nguyên đơn: Nguyễn Thị Ánh H, sinh năm: 1982.

Đa chỉ: xã B, huyện C, thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Huỳnh Thanh L, sinh năm: 1981.

Đa chỉ: xã B, huyện C, thành phố Hồ Chí Minh.

(bà H và ông L vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai và biên bản về việc không tiến hành hòa giải được – nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ánh H trình bày: Bà Nguyễn Thị Ánh H và ông Huỳnh Thanh L bắt đầu chung sống vào năm 2011, do tự tìm hiểu, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, không có gì xảy ra, tuy nhiên đến năm 2013 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, ông L có tình cảm với người phụ nữ khác, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Bà H đã nhiều lần bỏ qua, để hàn gắn tình cảm gia đình nhưng vẫn không hòa giải được. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2014 cho đến nay. Nay xét thấy cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, bà H yêu cầu được ly hôn với ông Huỳnh Thanh L.

Về con chung: Bà H và ông L có 01 con chung tên Huỳnh Nguyễn Bình M (giới tính nam), sinh ngày: 01/8/2014. Hiện trẻ M đang sống chung với bà H, sau khi ly hôn, bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng trẻ M và không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà H xác nhận không có.

Bị đơn ông Huỳnh Thanh L vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án mặc dù đã được Tòa án tống đạt trực tiếp hợp lệ nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của ông L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Thị Ánh H nộp đơn xin ly hôn đối với ông Huỳnh Thanh L. Ông Huỳnh Thanh L hiện đang cư trú tại huyện C. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Ông Huỳnh Thanh L đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Huỳnh Thanh L theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Bà Nguyễn Thị Ánh H có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà H theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng mời ông Huỳnh Thanh L đến Tòa án để giải quyết vụ án tranh chấp về ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Ánh H và ông Huỳnh Thanh L nhưng ông L không đến Tòa án để giải quyết. Vì vậy, ông Huỳnh Thanh L tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình. Do đó, ông Huỳnh Thanh L phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[4] Về quan hệ vợ chồng: Theo giấy chứng nhận kết hôn số 213, quyển số 1/2011 do Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 01/8/2011 có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Ánh H và ông Huỳnh Thanh L là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Bà H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng giữa bà và ông L không thể hàn gắn được, nên bà yêu cầu được ly hôn với ông L để mỗi người tạo dựng cuộc sống riêng. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu trên hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Bởi lẽ, theo lời trình bày của bà H thì giữa bà và ông L bất đồng quan điểm sống, tính tình không còn hòa hợp, mâu thuẫn trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng thường xuyên cãi vã, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2014 cho đến nay. Như vậy, vợ chồng không còn sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau, không cùng nhau vun đắp hạnh phúc gia đình. Mặt khác, trong quá trình hòa giải tại Tòa, ông L cũng không đến Tòa án tham gia tố tụng theo giấy triệu tập để Tòa án hòa giải, động viên hai bên đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng, điều này chứng tỏ giữa hai người đã không còn tình cảm và đều không có thiện chí để đoàn tụ. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Ánh H đối với ông Huỳnh Thanh L.

[6] Về con chung: Bà Nguyễn Thị Ánh H và ông Huỳnh Thanh L có 01 con chung tên Huỳnh Nguyễn Bình M (giới tính nam), sinh ngày: 01/8/2014. Hiện trẻ M đang sống chung với bà H. Sau khi ly hôn, bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng trẻ M, không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con. Ông L vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của ông L về con chung giữa ông L và bà H nên Hội đồng xét xử chỉ xem xét giải quyết vấn đề con chung theo yêu cầu của bà H, nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà H, giao trẻ Huỳnh Nguyễn Bình M (giới tính nam), sinh ngày: 01/8/2014 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông L cho đến khi bà H có yêu cầu.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Bà H xác nhận không có và không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[8] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Ánh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, Điều 203, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 116 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Về quan hệ vợ chồng: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Ánh H đối với ông Huỳnh Thanh L.

Bà Nguyễn Thị Ánh H được ly hôn với ông Huỳnh Thanh L.

Giấy chứng nhận kết hôn số 213, quyển số 1/2011 do Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 01/8/2011 không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Bà Nguyễn Thị Ánh H và ông Huỳnh Thanh L có 01 con chung tên Huỳnh Nguyễn Bình M (giới tính nam), sinh ngày: 01/8/2014. Giao trẻ M cho bà Nguyễn Thị Ánh H trực tiếp nuôi dưỡng; tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông L cho đến khi bà H có yêu cầu.

Ông Huỳnh Thanh L có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con sau này theo quy định tại Điều 83, Điều 84 và Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó theo quy định tại Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà H xác nhận không có và không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Ánh H chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) mà bà H đã nộp theo biên lai thu số 0002396 ngày 02/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Bà H đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1387/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1387/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về