Bản án 138/2019/HS-ST ngày 16/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 138/2019/HS-ST NGÀY 16/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16/8/2019, tại Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 130/2019/TLST-HS ngày 20/6/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 131/2019/QĐXXST-HS ngày 10/7/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2019/HSST-QĐ ngày 25/7/2019 đối với bị cáo:

Kim Văn Đ, sinh năm 1981.

HKTT: Thôn T, xã L, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông Kim Văn Th, sinh 1954 và bà Nguyễn Thị Th, sinh 1956; Vợ: Hoàng Thị H, sinh 1986 Con: có 02 con, lớn sinh 2005, nhỏ sinh 2007.

Tiền án: Tại bản án số 21 ngày 28/8/2009 của Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng sơn xử phạt 3 năm 06 tháng tù về tội “Lưu hành tiền giả”.

Tại bản án số 27 ngày 18/9/2009 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Tại bản án số 59 ngày 17/11/2011 của Tòa án nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang xử phạt 16 tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam giữ” và 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt với hai bản án trên buộc Đông phải chấp hành hình phạt chung cho cả 03 bản án là 04 năm 01 tháng 16 ngày tù. Đến ngày 30/9/2015, Đông chấp hành xong hình phạt tù ra trại nhưng chưa chấp hành xong các khoản án phí của 03 bản án.

Tiền sự: Ngày 17/3/2016, Đông bị Công an quận Tây Hồ, Tp Hà Nội ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi “Say rượu bia gây mất trật tự công cộng” với mức phạt 750.000đ. Đông chưa nộp phạt.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/3/2019 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 9 giờ 35’ ngày 05/3/2019, tại khu phố Chùa Dận, phường Đình Bảng, tổ công tác Công an phường Đình Bảng đã bắt quả tang Kim Văn Đ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trong lòng bàn tay phải của Đông 02 gói nhỏ đều được bọc ngoài bằng lớp giấy màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng. Đông khai nhận đó là 02 gói ma túy Heroine do Đông vừa mua được đang tìm nơi sử dụng thì bị lực lượng công an kiểm tra bắt giữ. Sau đó, tổ công tác đã tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã Từ Sơn giải quyết theo thẩm quyền.

Cùng ngày 05/3/2019, Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an thị xã Từ Sơn đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 130 để giám định chất bột màu trắng chứa trong 02 gói nhỏ thu giữ của Đông.

Tại bản kết luận giám định số 296/KLGĐMT-PC09 ngày 05/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: “chất bột màu trắng bên trong 02 gói nhỏ đều được bọc ngoài bằng lớp giấy màu trắng có khối lượng 0,2330 gam; là ma túy; loại ma túy: Heroine” Với hành vi trên tại bản Cáo trạng số 113/CT-VKS ngày 19/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố bị cáo Kim Văn Đ ra trước Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, chủ tọa trích đọc biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Ninh, lời khai của bị cáo tại cơ quan triều tra và biên bản làm việc với bị cáo ngày 05/8/2019.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố giữ nguyên bản Cáo trạng số 113/CT-VKS ngày 19/6/2019. Sau khi đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Kim Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Kim Văn Đ từ 05 năm 06 tháng tù đến 06 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 05/3/2019.

Đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo do bị cáo mua ma túy để sử dụng, không có mục đích kiếm lời và bị cáo không có nghề nghiệp, tài sản gì.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Bị cáo đã được tòa án triệu tập hợp lệ, song vì lý do sức khỏe bị cáo đề nghị tòa án xét xử vắng mặt bị cáo. Xét việc khởi tố, Điều tra, truy tố bị cáo được các cơ quan Điều tra, viện kiểm sát thực hiện khách quan, đầy đủ đúng pháp luật, việc bị cáo đề nghị xét xử vắng mặt bị cáo là tự nguyện và có lý do chính đáng. Cứ điểm c khoản 2 Điều 290 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án vắng mặt bị cáo.

Lời khai nhận của bị cáo tại cơ quan Điều tra là phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, tang vật thu hồi được và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở kết luận: hồi 9 giờ 30’ ngày 05/3/2019, bị cáo Đ đã có hành vi cất giữ trái phép 0,2330 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Tại bản án số 59 ngày 17/11/2011 của Tòa án nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang đã xác định bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là “tái phạm”. Trong thời gian chưa được xóa án tích, bị cáo lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” Do vậy, bản cáo trạng số 113/CT-VKS ngày 19/6/2019 của VKSND thị xã Từ Sơn đã truy tố bị cáo Đ với tội danh và Điều luật đã viện dẫn ở trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Ma túy đang được coi là mối hiểm họa của nhân dân, là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác. Tệ nạn ma túy làm ảnh hưởng đến các chính sách phát triển kinh tế- xã hội của nhà nước; việc đấu tranh với các tội phạm về ma túy hiện nay là nhiệm vụ của toàn đảng, toàn dân; Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách bài trừ tệ nạn ma túy. Nhưng bất chấp sự ngăn cấm của pháp luật, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng nên đã đi vào con đường phạm tội. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay làm gia tăng tệ nạn ma túy ở địa phương. Chính vì vậy phải đưa ra xét xử bị cáo kịp thời nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo thấy: bị cáo là người có nhân thân xấu và là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo đã nhiều lần bị tòa án xét xử nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục có hành vi phạm tội. Điều này thể hiện bị cáo là người coi thường pháp luật, khó giáo dục cải tạo. Lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”, là tình tiết định khung hình phạt nên bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tại Cơ quan Điều tra, bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử thấy đối với hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử lý với mức hình phạt nghiêm khắc, buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian mới có ý nghĩa cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung với xã hội. Ngoài hình phạt chính lẽ ra cần áp dụng hình phạt bổ sung, phạt bị cáo một khoản tiền nhất định để sung quỹ Nhà nước thì mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật khi xét xử loại tội phạm này nhưng xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

Về tang vật của vụ án: số ma túy thu giữ của bị cáo là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ pháp luật.

Liên quan trong vụ án này có người đàn ông đã chỉ cho Đông biết nơi mua ma túy và người trong ngôi nhà có cánh cửa bằng sắt đóng kín tại địa bàn thuộc khu dân cư phường Đình Bảng đã bán ma túy cho Đông nhưng bị cáo không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể của người này, vị trí ngôi nhà Đông mua ma túy đến nay Đông không nhớ nên cơ quan Điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp.

Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Kim Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 329, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử phạt: Kim Văn Đ 05 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 05/3/2019.

Tạm giam bị cáo Kim Văn Đ 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

Tang vật vụ án: tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật còn lại sau giám định của phòng kỹ thuật Công an tỉnh Bắc Ninh. (Mặt trước có ghi chữ: “Mẫu vật còn lại sau giám định, kèm theo KLGĐ số 296/KLGĐMT-PC09 ngày 05/3/2019 của PC09”)

Bị cáo Kim Văn Đ phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 138/2019/HS-ST ngày 16/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:138/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về