Bản án 138/2019/HNGĐ-ST ngày 07/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 138/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 07 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 465/2019/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 6 năm 2019 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 134/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trịnh Tiến B, sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn 12, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Chị Bùi Thị G, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn 12, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Anh Trịnh Tiến B là nguyên đơn khởi kiện với nội dung anh và chị Bùi Thị G quen biết, phát sinh tình cảm và đi đến hôn nhân tự nguyện. Anh và chị G đã đăng ký kết hôn ngày 02/4/2001 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng. Sau lễ cưới, chị G về chung sống cùng với anh tại Thôn 12, xã H, huyện T. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến khoảng giữa năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Theo anh thì từ khi chị G tham gia nhóm hội có tên gọi “Pháp Luân Công” và giành nhiều thời gian cho nhóm hội này, chị G không quan tâm đến tình cảm, tâm tư của anh cũng như gia đình. Vợ chồng thường xuyên tranh cãi, không giữ được trật tự vốn có trong mỗi gia đình. Năm 2018, anh đã nộp đơn xin ly hôn. Tuy nhiên do bận công việc anh không đến Tòa án làm thủ tục theo triệu tập nên Tòa án đã đình chỉ vụ án. Nay, xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh đề nghị Tòa án cho ly hôn với chị G. Con chung giữa anh và chị G là Trịnh Thị Thu H sinh ngày 04 tháng 9 năm 2002 và Trịnh Thị Mai A sinh ngày 02 tháng 3 năm 2008. Khi ly hôn, anh đề nghị được trực tiếp nuôi 02 con và không yêu cầu chị G cấp dưỡng cho con vì anh có thu nhập cao và ổn định hơn so với chị G. Anh và chị G không có tài sản chung nên anh không đề nghị Tòa án chia tài sản.

Chị Bùi Thị G là bị đơn trình bày quan điểm về quan hệ tình cảm và đi đến hôn nhân đúng như ý kiến của anh B. Chị tham gia hội nhóm như anh B nói bắt đầu là do chị tập luyện vì sức khỏe và chị thấy tốt cho chị hơn. Chị vẫn giành thời gian và quan tâm đến anh B và gia đình. Do anh B và các thành viên bên gia đình anh B không hiểu nên đã đối xử với chị không đúng mực. Anh B xin li hôn, chị không đồng ý vì chị vẫn rất thương yêu anh B. Nếu phải ly hôn, chị vẫn mong muốn được nuôi 02 con mặc dù thu nhập hiện tại của chị trung bình được 3.800.000 đồng/tháng nhưng chị tin là chị vẫn đủ khả năng chăm sóc tốt 02 con. Việc cấp dưỡng cho con sẽ do chị và anh tự thỏa thuận. Về tài sản chung, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Cháu Trịnh Thị Thu H và Trịnh Thị Mai A là con đẻ của anh Trịnh Tiến B và chị Bùi Thị G có ý kiến nếu bố mẹ ly hôn thì các cháu có nguyện vọng muốn ở cùng với bố cháu.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng và ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; đề nghị xem xét giao 02 chung cho anh Trịnh Tiến B trực tiếp nuôi dưỡng người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con mà không ai được cản trở.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]  Về yêu cầu của anh Trịnh Tiến B xin ly hôn chị Bùi Thị G

Anh Trịnh Tiến B và chị Bùi Thị G kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứng nhận đăng ký kết hôn. Vì vậy, kết hôn giữa anh B và chị G là hợp pháp. Do bất đồng quan điểm vợ chồng trong sinh hoạt và đối xử giữa các thành viên trong gia đình nên anh B và chị G thường xuyên tranh cãi nhau. Anh B đã một lần nộp đơn xin ly hôn, đến nay anh vẫn cương quyết xin ly hôn với chị G. Chị G không muốn ly hôn nhưng cũng không có cách nào để anh B thay đổi quan điểm mong muốn ly hôn với chị. Điều này chứng minh mâu thuẫn giữa anh B và chị G đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh B xin ly hôn với chị G.

[2]  Về người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Anh B và chị G có 02 con chung tên Trịnh Thị Thu H sinh ngày 04 tháng 9 năm 2002 và Trịnh Thị Mai A sinh ngày 02 tháng 3 năm 2008. Khi ly hôn, anh B đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Xét công việc, thu nhập, nơi ở, các điều kiện chăm sóc con cung của anh B đáp ứng đầy đủ điều kiện nuôi con. Chị G cũng có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con nhưng bản thân chị cũng cho biết thu nhập hiện tại của chị nuôi con là có khó khăn. Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con trên cơ sở điều kiện, hoàn cảnh hiện tại của anh B và chị G, nguyện vọng của con chung, Hội đồng xét xử xét giao 02 con chung cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Anh B không yêu cầu chị G cấp dưỡng. Chị G đều đề nghị để anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét đề nghị của anh B và chị G là tự nguyện, quyền lợi của con chung vẫn được đảm bảo nên Hội đồng xét xử không buộc chị G phải cấp dưỡng cho con.

[3]  Về tài sản chung, anh Trịnh Tiến B và chị Bùi Thị G không yêu cầu chia nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[4]  Về án phí, anh Trịnh Tiến B phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án,

- Cho anh Trịnh Tiến B được ly hôn chị Bùi Thị G.

- Giao cho anh Trịnh Tiến B trực tiếp nuôi dưỡng 02 con là Trịnh Thị Thu H sinh ngày 04 tháng 9 năm 2002 và Trịnh Thị Mai A sinh ngày 02 tháng 3 năm 2008 đến khi con thành niên và có khả năng lao động, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Chị Bùi Thị G không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ, quyền thăm nom con mà anh Trịnh Tiến B hoặc bất kì ai không được cản trở.

- Anh Trịnh Tiến B phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm. Đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp (ghi tại biên lai thu số 0002648 ngày 13/6/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên), anh Trịnh Tiến B đã nộp đủ án phí.

- Anh Trịnh Tiến B, chị Bùi Thị G có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, ng­ười phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 .

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 138/2019/HNGĐ-ST ngày 07/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:138/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về