Bản án 137/2020/HS-ST ngày 21/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 137/2020/HS-ST NGÀY 21/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21/9/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu; Toà án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 73/2020/TLST - HS ngày 29/5/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 193/2020/QĐXXST – HS ngày 08 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn Ch; Tên gọi khác: không; giới tính: nam. Sinh ngày 14/05/1980 tại huyện Quỳnh Lâm, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: xóm 4, xã Quỳnh L, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không. Trình độ học vấn: 12/12. Nghề nghiệp: lái xe. Họ và tên cha: Trần Thanh Tr, sinh năm 1953; họ và tên mẹ: Nguyễn Thị S, sinh năm 1955. Vợ: Hồ Thị A, sinh năm 1979 và có 2 con, con lớn nhất sinh năm 2012 và con nhỏ nhất sinh năm 2013. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/3/2020 đến ngày 16/4/2020 thì được hủy bỏ biện pháp tạm giam, áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

- Anh Hồ Bá H, sinh năm 1992. (vắng mặt) Trú tại: xóm 2, xã Diễn L, huyện D, tỉnh Nghệ An.

- Chị Nguyễn Thị O, sinh năm 1994. (vắng mặt) Trú tại: xóm 2, xã Quỳnh T, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Thanh T, sinh năm 1993. (vắng mặt) Trú tại: xóm 4, xã Quỳnh L, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 24/3/2020, Trần Văn Ch đã thực hiện hai vụ trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 07 giờ 00 phút, ngày 24/3/2020, Trần Văn Ch điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Huyndai, màu sơn xanh, BKS: 37C-253.32 từ nhà ở xóm 4, xã Quỳnh L, huyện Q lên xã Quỳnh T, huyện Q để bán hàng tạp hóa. Khi đi lên đến xã Quỳnh T, huyện Q, Trần Văn Ch dừng xe tại quán bán tạp hóa “Oanh Dương” của chị Nguyễn Thị O. Ch xuống xe đi vào quán nhưng không thấy ai. Sau đó, Ch đi thẳng vào phòng khách thấy 01 (một) điện thoại di động Iphone 8 màu đen và 01 (một) điện thoại di động OPPO F1S màu trắng đang cắm sạc để trên tủ ti vi, lợi dụng không có ai ở nhà, Ch lấy trộm 02 (hai) máy điện thoại trên rồi lên xe ô tô đi khỏi quán. Trên đường rời khỏi xã Quỳnh Tam, Trần Văn Ch thấy điện thoại Iphone 8 của bà Nguyễn Thị O đổ chuông nên Ch nghe máy điện thoại và nói: “Hiện nay máy điện thoại của chị đang ở chỗ tôi, nếu chị muốn lấy lại điện thoại, thì chiều nay mang theo 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) đến chợ xã Ngọc Sơn, huyện Quỳnh Lưu” rồi tắt máy.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 09 giờ 00 phút, ngày 24/3/2020, sau khi lấy được điện thoại, Trần Văn Ch tiếp tục điều khiển xe ô tô đến khu vực xóm 2, xã Diễn L, huyện D, tỉnh Nghệ An để nhập hàng tạp hóa. Khi đi qua quán cắt tóc “Hair salon Hà Linh”của anh Hồ Bá H, Ch dừng xe đi vào quán để cắt tóc. Khi vào trong quán thấy không có ai, quan sát thấy có 01 (một) điện thoại di động Iphone 8 plus màu đen đang sạc pin để trên ghế gội đầu, Ch lấy chiếc điện thoại trên bỏ vào túi quần rồi lên xe về nhà. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, khi Ch về đến xã Quỳnh Tam, Quỳnh Lưu, Ch thấy điện thoại của anh Hồ Bá H đổ chuông nên Ch nghe máy rồi nói: “Hiện tôi đang giữ điện thoại này, nếu muốn lấy lại điện thoại thì chiều nay đưa 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng) lên chợ xã Ngọc Sơn,huyện Quỳnh Lưu, tôi trả máy cho”.

Đến khoảng 14 giờ 35 phút cùng ngày, Ch điều khiển xe máy nhãn hiệu VMEP Sanda màu mận biển kiểm soát: 37L1-232.76 đến điểm hẹn giao máy điện thoại cho anh Hồ Bá H để lấy tiền thì bị Công an xã Diễn Lâm, tổ công tác Công an huyện Diễn Châu bắt quả tang.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự ngày 26/3/2020 của Hội đồng định giá tài sản UBND huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An kết luận: 01 (một) điện thoại di động Iphone 8 màu đen trị giá 3.100.000 đồng (Ba triệu một trăm nghìn đồng); 01 (một) điện thoại di động OPPO F1S màu trắng trị giá 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng); 01 (một) điện thoại di động Iphone 8 plus trị giá 6.500.000 đồng (Sáu triệu năm trăm nghìn đồng). Tổng giá trị tài sản mà Ch chiếm đoạt là 9.900.000 đồng (Chín triệu chín trăm nghìn đồng).

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Diễn Châu, Trần Văn Ch đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án.

Tại bản cáo trạng số 86/CT-VKSDC ngày 27/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu đã truy tố Trần Văn Ch về tội "Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 36 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn Ch từ 09 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ và khấu trừ thu nhập bị cáo từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng hàng tháng trong thời gian thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Hồ Bá H và chị Nguyễn Thị O đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt nên anh Hà và chị Oanh không yêu cầu gì về dân sự.

- Tại phiên tòa bị cáo nhận tội và không tranh luận gì mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an huyện Diễn Châu, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều được thực hiện hợp pháp.

[2]. Về căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng truy tố.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại; lời khai người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án thì đã có đủ cơ sở để kết luận:

Vào ngày 24/3/2020, lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu, Trần Văn Ch đã có hành vi trộm cắp tài sản 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8, màu đen; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F1S, màu trắng của chị Nguyễn Thị O chủ quán tạp hóa “Dung Oanh” tại xóm 2, xã Quỳnh T, huyện Q, tỉnh Nghệ An và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus, màu đen của anh Hồ Bá H chủ quán cắt tóc “Hair salon Hà Linh” thuộc xóm 2, xã Diễn L, huyện D, tỉnh Nghệ An, tổng giá trị tài sản mà Trần Văn Ch chiếm đoạt là 9.900.000 đồng (Chín triệu chín trăm nghìn đồng). Hành vi đó đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3]. Về tính chất vụ án; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Vụ án thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tuy nhiên hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ và gây mất trật tự trị an trên địa bàn do đó cần xét xử nghiêm để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; bố đẻ của bị cáolà ông Trần Thanh T và mẹ là bà Nguyễn Thị S có công với cách mạng. Các tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo phạm tội 02 lần nên thuộc trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xét bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng; bản thân bị cáo không có tiền án tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo nên không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội mà áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo và khấu trừ thu nhập hàng tháng của bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt như đề nghị của Viện kiểm sát cũng đủ tác dụng răn đe, phòng ngừa; đồng thời tạo điều kiện để bị cáo sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Anh Hồ Bá H và chị Nguyễn Thị O đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt anh Hà và chị Oanh không yêu cầu gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về vật chứng vụ án:

- Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu VMEP Sanda màu mận BKS: 37L1-232.76 thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Trần Thanh T, nhưng ông Trúc không biết bị cáo Ch sử dụng xe máy để thực hiện hành vi phạm tội nên cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe máy trên cho ông Trần Thanh T theo quy định của pháp luật. Và ông Trần Thanh T không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với 01 (một) xe ô tô nhãn hiệu Huyndai, loại xe bán tải, màu sơn xanh, biển kiểm soát 37C-253.32, là tài sản chung của vợ chồng Trần Văn Ch và chị Hồ Thị A. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho Trần Văn Ch và chị Hồ Thị A.

[6]. Đối với hành vi đòi tiền chuộc điện thoại của bị cáo đối với anh Hồ Bá H và chị Nguyễn Thị O. Xét thấy hành vi này nhằm mục đích tiêu thụ số tài sản trộm cắp trước đó của bị cáo nên hành vi này của bị cáo không cấu thành một tội phạm độc lập.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 36 của Bộ luật hình sự;

- Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn Ch phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Văn Ch 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ.

Nhưng được trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ tạm giam từ ngày 24/3/2020 đến ngày 16/4/2020 là 24 ngày tạm giữ, tạm giam, tương ứng với 72 ngày (02 tháng 12 ngày) cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành 09 (chín) tháng 18 (mười tám) ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Khấu trừ thu nhập của Trần Văn Ch mỗi tháng 500.000 đồng (năm trăm ngàn đồng) để sung quỹ Nhà nước. Thời gian khấu trừ thu nhập tương ứng với thời gian cải tạo không giam giữ. Việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hàng tháng trong thời gian thi hành án.

Giao bị cáo Trần Văn Ch cho UBND xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An để giám sát và giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

2. Về án phí: Buộc bị cáo Trần Văn Ch phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 137/2020/HS-ST ngày 21/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:137/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về