Bản án 137/2019/HSST ngày 13/11/2019 về tội hủy hoại tài sản và trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 137/2019/HSST NGÀY 13/11/2019 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN VÀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 131/2019/HSST ngày 28 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 133/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Mạnh C, sinh ngày 25/10/1975; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 2, phường Y, thành phố YB, tỉnh Yên Bái; nơi cư trú: Ngõ 4, đường Q, phường H, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc; giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Văn Tn và bà Phạm Thị H; có vợ là Khuất Thị Thu V và có 01 con; tiền án: Không; tiền sự: 01. Ngày 03/10/2017 Công an thành phố Y, tỉnh Yên Bái ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy mức phạt 500.000đ (chưa nộp phạt); bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/7/2019 đến nay (có mặt).

Bị hại: A Tạ Phúc T, sinh năm 1976; nơi cư trú: Tổ dân phố Q, phường H, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).

Chị Nguyễn Thị Lan A, sinh năm 1978; nơi cư trú: Tổ dân phố Q, phường H, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Khuất Thị Thu V, sinh năm 1983; nơi cư trú: Ngõ 4, đường Q, phường H, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có thời gian làm việc cho Cửa hàng nhôm kính của A Tạ Phúc T nên Nguyễn Mạnh C biết rõ đường đi, lối lại trong Cửa hàng và nhà ở của A T. Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 02/7/2019, C điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ BKS: 19F1-029.84 đến nhà A T ở tổ dân phố Quán Tiên, phường Hội Hợp, thành phố V để tìm A Lê Văn Sỹ (em họ của A T) để đi làm ở xã Đồng Văn, huyện Yên Lạc. Khi đến nhà A T, C gọi A Sỹ nhưng không thấy A Sỹ ở nhà, đồng thời trong nhà cũng không có ai nên C đã nảy sinh ý định đột nhập vào nhà A T để trộm cắp tài sản. Sau đó, C bám tay vào cây lộc vừng trước cửa nhà A T rồi trèo qua bờ tường vào bên trong nhà. C đi vào lối cửa ngách bên tay trái để vào nhà rồi đi qua khu vực xưởng sản xuất và vào phòng khách. Sau khi vào trong phòng khách, C thấy cửa chính và cửa sổ phòng ngủ (giáp với phòng khách của căn nhà) đóng nên dùng tay mở cửa chính nhưng không mở được nên C dùng tay nâng 01 cánh cửa sổ phòng ngủ lên tạo một khe hở rộng khoảng 7-8cm rồi luồn tay phải vào bên trong mở chốt cửa chính (bên cạnh cửa sổ) đi vào trong phòng ngủ. Sau khi vào trong, C xếp cửa sổ lại như cũ và khóa lại. Sau đó, C tìm quA phòng xem có tài sản gì để trộm cắp nhưng không tìm được gì chỉ thấy trong phòng có 02 chiếc két sắt để phía dưới đuôi giường. Chiếc két to kê trên mặt sàn, chiếc két nhỏ hơn để phía trên chiếc két to. Do sợ bị phát hiện nên C mở cửa chính buồng ngủ đi ra ngoài rồi khép lại và đi ra ngoài bằng lối vào ban đầu. Sau đó C đi một mình xuống xã Đồng Văn, huyện Yên Lạc để đi làm. Khi đến nơi do trời mưa không làm được việc, nên C quay về nhà A T để tìm A Sỹ. C gọi cửa nhưng không có ai ở nhà nên lúc này C tiếp tục nảy sinh ý định đột nhập vào nhà A T trộm cắp tài sản. C vào nhà A T theo lối vào lần trước và mở cửa phòng ngủ đi vào bên trong tìm tài sản để trộm cắp nhưng không thấy gì. Sau đó, C đóng cửa buồng, quay xuống xưởng nhà A T thì thấy có 01 máy cắt cầm tay cùng 03 lưỡi cắt để ở bàn để đồ nên nảy sinh ý định dùng chiếc máy cắt này để cắt 02 chiếc két sắt trong phòng ngủ. C lấy lưỡi cắt lắp vào máy rồi cầm vào phòng ngủ nhà A T với mục đích để cắt 02 két sắt để ở trong phòng ngủ. C bê 01 két điện tử hiệu Việt Tiệp úp mặt có cửa két xuống giường rồi dùng máy cắt thủng lớp kim loại phía ngoài ở mặt lưng của chiếc két kích thước (21x28)cm, sau đó C tiếp tục cắt thủng lớp kim loại phía trong kích thước (15x16)cm lấy đi 01 tập tiền gồm các tờ tiền mệnh giá 5000đ, 01 tập tiền gồm các tờ mệnh giá 2000đ và các tờ tiền lẻ các loại với tổng số tiền là 755.000đ. C tiếp tục lật úp chiếc két nhãn hiệu EMC xuống nền nhà rồi dùng máy cắt thủng lớp kim loại phía ngoài ở mặt lưng của chiếc két kích thước (38x17)cm, sau đó C tiếp tục cắt thủng lớp kim loại phía trong kích thước (25x15)cm lấy đi 08 nhẫn kim loại màu vàng các loại, 03 khuyên tai kim loại màu vàng, 01 mặt dây chuyền không màu bọc kín con ngựa màu vàng, 01 viên đá hình cầu màu trắng, đỏ có 06 cánh hoa ở đáy bằng kim loại màu vàng, 01 dây chuyền kim loại màu trắng, 01 túi vải màu đỏ bên trong có 01 con vật, 02 hạt hình cầu bằng kim loại màu vàng và 14 hạt hình cầu màu tím. C đúc số tiền đã trộm cắp trên vào túi quần phải còn số kim loại trên C đựng trong 01 chiếc túi nilon màu xA và đúc vào túi quần trái. Sau đó, C cầm chiếc máy cắt để lại vào vị trí cũ trong xưởng rồi trèo ra ngoài bằng lối vào ban đầu và điều khiển xe máy đi về nhà trọ của C cất giấu số kim loại bằng vàng đã trộm cắp được ở gác xép; số tiền trộm cắp được, C đã tiêu xài hết 230.000đ, còn lại 525.000đ. Sau khi xảy ra sự việc 21 giờ cùng ngày 02/7/2019, chị Nguyễn Thị Lan A đã đến Công an thành phố V trình báo.

Quá trình xác minh, khoảng 11 giờ 30 phút ngày 03/7/2019, Nguyễn Mạnh C đã tự nguyện mang toàn bộ số kim loại màu vàng trộm cắp được trên và số tiền 525.000đ đến nhà A T để trả lại tài sản. Công an thành phố V đã tiến hành tạm giữ tài sản gồm: 02 chiếc nhẫn kim loại màu vàng hình tròn trơn đựng trong 02 vỉ nhựa; 01 chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng có khắc các chữ, số “Nhật Minh 24K 1 chi”; 01 chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng, mặt trong nhẫn có khắc “Gia Bảo 9999”; 01 chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng mặt nhẫn hình bông hoa 4 cánh; 01 chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng mặt nhẫn gắn 01 viên đá đỏ hình bầu dục; 02 chiếc khuyên tai đều bằng kim loại màu vàng, trắng được chế tác kiểu sợi uốn hình bầu dục xoắn vào nhau; 01 chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng mặt trong nhẫn có khắc các chữ chìm “VNT”; 01 chiếc khuyên tai bằng kim loại màu vàng, mặt trong có khắc các chữ chìm “NH”; 01 mặt dây có khắc các chữ, số chìm “NMJ 10K13”; 01 viên đá hình cầu màu trắng, đỏ (hình quả lựu) có gắn tai quả, móc treo khắc các chữ, số chìm “67QP” và bông hoa 6 cánh ở đáy quả đều bằng kim loại màu vàng; 01 dây chuyền kim loại màu trắng; 01 chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng khắc các chữ, số chìm “OA Vân 1 24K”; 01 con vật và 02 hạt hình cầu đều có hoa văn nổi đều bằng kim loại màu vàng và 14 hạt hình cầu màu tím và số tiền 525.000đ đồng thời lập biên bản sự việc và niêm phong số tài sản trên theo quy định của pháp luật.

Cùng ngày 03/7/2019, chị Khuất Thị Thu V (vợ C) đã tự nguyện giao nộp cho Công an thành phố V 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ BKS: 19F1 - 029.84.

Tại kết luận định giá số 117/KL-HĐĐG ngày 11/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản UBND thành phố V kết luận: Tổng trị giá của hai chiếc két là 2.500.000đ.

Tại kết luận giám định số 3799/C09(P4) ngày 29/7/2019 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận:

- 02 ( hai) chiếc nhẫn kim loại màu vàng hình tròn trơn, mặt trong mỗi chiếc nhẫn đều khắc các chữ, số chìm “NTSJC 24K 9999 1C SYC” được đựng trong 02 (hai) vỉ nhựa không màu bên trong đều có 01 (một) miếng bìa cứng in chữ “Công ty TNHH thương mại và đầu tư Bảo Ngọc Vĩnh Phúc” gửi giám định có tổng khối lượng 7,5 gram đều là vàng (Au); hàm lượng trung bình Au: 99,80%.

- 01 (một) chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng được chế tác kiểu tròn trơn, mặt trong nhẫn có khắc các chữ, số “Nhật Minh 24K 1 chi”, gửi giám định có khối lượng 3,75 gram đều là vàng (Au); hàm lượng Au: 99,50%.

- 01 (một) chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng được chế tác kiểu tròn trơn, mặt trong nhẫn có khắc các chữ, số “ Gia Bảo 9999”, gửi giám định có khối lượng 3,75 gram đều là vàng (Au); hàm lượng Au: 98,16%.

- 01 (một) chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng được chế tác kiểu mặt nhẫn hình bông hoa 4 cánh gắn 01 (một) viên đá màu đỏ và 04 (bốn) viên đá nhỏ không màu gửi giám định có tổng khối lượng 3,94 gram(tính cả đá) đều là vàng (Au); hàm lượng Au: 99,20%.

- 01 (một) chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng được chế tác kiểu mặt nhẫn gắn 01 (một) viên đá đỏ hình bầu dục, mặt trong nhẫn có khắc các chữ, số chìm “VA 10K” gửi giám định có tổng khối lượng 3,70 gram(tính cả đá) là hợp kim vàng (Au), bạc (Ag), đồng (Cu), kẽm (Zn); hàm lượng Au: 40,71%, Ag: 17,31%, Cu: 33,21%, Zn: 8,77%.

- 02 (hai) chiếc khuyên tai đều bằng kim loại màu vàng, trắng được chế tác kiểu sợi uốn hình bầu dục xoắn vào nhau, trên chốt đeo mỗi chiếc đều có khắc các chữ, số chìm “ITALY 750”, gửi giám định có tổng khối lượng 4,15 gram là họp kim vàng (Au), bạc (Ag), đồng (Cu), kẽm (Zn); hàm lượng trung bình Au: 74,96%, Ag: 9,96%, Cu: 12,75%, Zn: 2,33%.

- 01 (một) chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng được chế tác kiểu mặt hình xoắn bản to gắn các viên đá nhỏ không màu, mặt trong nhẫn có khắc các chữ chìm “VNT”, gửi giám định có tổng khối lượng 3,09 gram(tính cả đá) là họp kim vàng (Au), bạc (Ag), đồng (Cu), kẽm (Zn); hàm lượng Au: 40,84%, Ag: 9,06%, Cu: 43,22%, Zn: 6,88%.

- 01 (một) chiếc khuyên tai bằng kim loại màu vàng, trắng được chế tác hình tròn, bản dẹt, mặt trong có khắc các chữ chìm “NH”, gửi giám định có khối lượng 0,67 gram là hợp kim vàng (Au), bạc (Ag), đồng (Cu), kẽm (Zn); hàm lượng trung bình Au: 40,69%, Ag: 7,00 %, Cu: 43,32%, Zn: 8,99%.

- 01 (một) mặt dây chuyền (dạng đá) không màu bọc kín con ngựa màu vàng, phần móc khóa bằng kim loại màu vàng có khắc các chữ, số chìm “NMJ 10K13”, gửi giám định có tổng khối lượng 6,33 gram(tính cả đá); móc khóa bằng kim loại màu vàng là hợp kim vàng (Au), bạc (Ag), đồng (Cu), kẽm (Zn); hàm lượng Au: 41,24%, Ag: 7,63%, Cu: 42,44%, Zn: 8,69%.

- 01 (một) viên đá hình càu màu trắng, đỏ (hình quả lựu) có gắn tai quả, móc treo khắc các chữ, số chìm “67QP” và bông hoa 6 cánh ở đáy quả đều bằng kim loại màu vàng, trên tai quả có gắn nhiều viên đá nhỏ không màu, gửi giám định có tổng khối lượng 4,96 gram; phần tai quả, móc treo và bông hoa 6 cánh ở đáy quả đều là hợp kim vàng (Au), bạc (Ag), đồng (Cu), kẽm (Zn); hàm lượng Au: 40,09%, Ag: 8,85%, Cu: 42,87%, Zn: 8,19%.

- 01 (một) dây chuyễn kim loại màu trắng được chế tác kiểu các mắt xích dài nối cách đều với 6 mắt xích tròn, gửi giám định có tổng khối lượng 14,85 gram gồm:

+ Phần các mắt xích dài đều là bạc (Ag), hàm lượng trung bình Ag: 93,91 %. Ngoài ra còn có các nguyên tố đồng (Cu), kẽm (Zn); hàm lượng trung bình Cu: 1,87%, Zn: 4,22%.

+ Phần các mắt xích dài đều là bạc (Ag), hàm lượng trung bình Ag: 97,67 %. Ngoài ra còn có các nguyên tố đồng (Cu), kẽm (Zn); hàm lượng trung bình Cu: 1,28%, Zn: 1,05%.

- 01 (một) chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng được chế tác kiểu tròn trơn, mặt trong nhẫn có khắc các chữ, số chìm “ OA Vân 1 24K”, gửi giám định có khối lượng 3,75 gram đều là vàng (Au); hàm lượng Au: 99,52%.

- 01 (một) con vật và 02 (hai) hạt hình cầu đều có hoa văn nổi đều bằng kim loại màu vàng và 14(mười bốn) hạt hình cầu màu tím (dạng đá), gửi giám định trong đó: phần 01 (một) con vật và 02(hai) hạt hình cầu đều là hoa văn nổi đều bằng kim loại màu vàng có tổng khối lượng 2,83 gram đều là vàng (Au); hàm lượng trung bình Au: 99,81%.

Tại kết luận định giá số 141/KL - HĐĐG ngày 09/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản UBND thành phố V kết luận:

- 02 ( hai) chiếc nhẫn kim loại màu vàng hình tròn trơn, mặt trong mỗi chiếc nhẫn đều khắc các chữ, số chìm “ NTSJC 24K 9999 1C SYC” được đựng trong 02 (hai) vỉ nhựa không màu bên trong đều có 01 (một) miếng bìa cứng in chữ “Công ty TNHH thương mại và đầu tư Bảo Ngọc Vĩnh Phúc”. Trị giá 7.800.000 đồng.

- 01 (một) chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng được chế tác kiểu tròn trơn, mặt trong nhẫn có khắc các chữ, số “ Nhật Minh 24K 1 chi”. Trị giá 3.900.000 đồng.

- 01 (một) chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng được chế tác kiểu tròn trơn, mặt trong nhẫn có khắc các chữ, số “ Gia Bảo 9999”. Trị giá 3.900.000 đồng.

- 01 (một) chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng được chế tác kiểu mặt nhẫn hình bông hoa 4 cánh gắn 01 (một) viên đá màu đỏ và 04 (bốn) viên đá nhỏ không màu. Trị giá 3.900.000 đồng.

- 01 (một) chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng được chế tác kiểu mặt nhẫn gắn 01 (một) viên đá đỏ hình bầu dục, mặt trong nhẫn có khắc các chữ, số chìm “VA 10K”. Trị giá 780.000 đồng.

- 02 (hai) chiếc khuyên tai đều bằng kim loại màu vàng, trắng được chế tác kiểu sợi uốn hình bầu dục xoắn vào nhau, trên chốt đeo mỗi chiếc đều có khắc các chữ, số chìm “ITALY 750”. Trị giá 3.100.000 đồng.

- 01 (một) chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng được chế tác kiểu mặt hình xoắn bản to gắn các viên đá nhỏ không màu, mặt trong nhẫn có khắc các chữ chìm “VNT”. Trị giá 1.320.000 đồng.

- 01 (một) chiếc khuyên tai bằng kim loại màu vàng, trắng được chế tác hình tròn, bản dẹt, mặt trong có khắc các chữ chìm “NH”. Trị giá 280.000 đồng.

- 01 (một) mặt dây chuyền (dạng đá) không màu bọc kín con ngựa màu vàng, phần móc khóa bằng kim loại màu vàng có khắc các chữ, số chìm “NMJ 10K13”. Trị giá 200.000 đồng.

- 01 (một) viên đá hình càu màu trắng, đỏ (hình quả lựu) có gắn tai quả, móc treo khắc các chữ, số chìm “67QP” và bông hoa 6 cánh ở đáy quả đều bằng kim loại màu vàng, trên tai quả có gắn nhiều viên đá nhỏ không màu. Trị giá 1.000.000 đồng.

- 01 (một) dây chuyễn kim loại màu trắng được chế tác kiểu các mắt xích dài nối cách đều với 6 mắt xích tròn. Trị giá 195.000 đồng - 01 (một) chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng được chế tác kiểu tròn trơn, mặt trong nhẫn có khắc các chữ, số chìm “OA Vân 1 24K” . Trị giá 3.900.000 đồng - 01 (một) con vật và 02 (hai) hạt hình cầu đều có hoa văn nổi đều bằng kim loại màu vàng và 14(mười bốn) hạt hình cầu màu tím (dạng đá). Trị giá 2.900.000 đồng.

Tổng trị giá tài sản là: 33.175.000 đồng.

Với hành vi như trên tại Cáo trạng số: 134/CT-VKSVY ngày 25/10/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh C về tội “Hủy hoại tài sản” theo khoản 1 Điều 178 và “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả của hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh C phạm tội “Hủy hoại tài sản” và “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 178; khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị Nguyễn Mạnh C từ 06 đến 09 tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản” và từ 09 đến 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là từ 01 năm 03 tháng đến 02 năm tù thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 03/7/2019). Áp dụng khoản 2 điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Xác nhận Cơ quan điều tra đã thu và trả lại cho A Tạ Phúc T số tài sản gồm: 08 nhẫn kim loại màu vàng các loại, 03 khuyên tai kim loại màu vàng, 01 mặt dây chuyền không màu bọc kín con ngựa màu vàng, 01 viên đá hình cầu màu trắng, đỏ có 06 cánh hoa ở đáy bằng kim loại màu vàng, 01 dây chuyên kim loại màu trăng, 01 túi vải màu đỏ bên trong có 01 con vật, 02 hạt hình cầu bằng kim loại màu vàng, 14 hạt hình cầu màu tím, 02 chiếc két sắt, 01 ổ khoá có đặc điểm như biên bản thu giữ và số tiền 525.000đ; trả lại cho chị Khuất Thị Thu V 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ BKS: 19F1-029.84.

Bị cáo không bào chữa, trA luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trA tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Mạnh C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thể hiện trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận:

Khong 15 giờ ngày 02/7/2019, tại nhà A Tạ Phúc T và chị Nguyễn Thị Lan A ở tổ dân phố Quán Tiên, phường Hội Hợp, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc, bị cáo Nguyễn Mạnh C đã có hành vi dùng 01 máy cắt sắt, cắt phá 02 chiếc két bạc (trị giá 2.500.000đ) và trộm cắp tài sản ở trong két gồm tiền mặt và vàng có tổng trị giá là 33.930.000đ. Hành vi cắt, phá 02 chiếc két làm mất hoàn toàn giá trị sử dụng của 02 chiếc két gây thiệt hại tài sản trị giá 2.500.000đ của bị cáo đã phạm vào tội: “Hủy hoại tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 178 của Bộ luật hình sự. Nội dung điều luật quy định: “1. Người nào hủy hoại… tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng… thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm” Hành vi trộm cắp tài sản gồm tiền mặt và vàng có tổng trị giá là 33.930.000đ của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Nội dung điều luật quy định: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000đồng đến dưới 50.000.000đồng…, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Xét tính chất của vụ án tuy là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Bị cáo có 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, ngày 03/10/2017 Công an thành phố Y, tỉnh Yên Bái ra quyết định xử phạt hành chính mức phạt 500.000đ bị cáo chưa chấp hành xong lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm bị cáo để răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra, tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo bồi thường thiệt hại cho bị hại và bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Do đó, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 và khoản 5 Điều 178 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền. Xét thấy, bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[4] Về dân sự và xử lý vật chứng: Đối với tổng số vàng và số tiền 525.000đ bị cáo Nguyễn Mạnh C tự nguyện giao nộp. Quá trình điều tra, ngày 27/9/2019, Công an thành phố V đã trả lại toàn bộ số vàng và tiền trên cho gia đình A Tạ Phúc T. A T đã nhận lại tài sản. Tại phiên tòa A T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì tiếp nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đi với 01 chiếc két bạc nhãn hiệu EMC và 01 chiếc két bạc nhãn hiệu Việt Tiệp bị bị cáo C cắt phá và 01 ổ khoá đến nay không còn giá trị sử dụng. Ngày 27/9/2019 Công an thành phố V đã trả lại chị A và A T 02 chiếc két và 01 ổ khoá trên. Ngày 03/11/2019 chị V (vợ bị cáo) đã bồi thường cho vợ chồng A T giá trị 02 chiếc két sắt là 2.500.000đ. Sau khi nhận tiền A T, chị V không có yêu cầu gì khác về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đi với số tiền 61.600.000đ, 02 nhẫn vàng loại 2 chỉ và 01 mặt dây vàng tây hình bầu dục để trong 02 chiếc két, chị Nguyễn Thị Lan A và A Tạ Phúc T khai bị mất ngày 02/7/2019. Tuy nhiên bị cáo C không thừa nhận đã trộm cắp số tài sản trên, khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo nhưng không thu giữ được gì khác; tiến hành đối chất giữa bị cáo và vợ chồng A T, chị A nhưng bị cáo vẫn khai nhận không trộm cắp số tài sản này. Nên ngoài lời khai của A T và chị A, không có tài liệu chứng cứ gì khác để xác định số tài sản trên do bị cáo C trộm cắp, do đó không có cơ sở để buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm đối với các tài sản này là phù hợp.

Đi với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ BKS: 19F1- 029.84 là tài sản của chị Khuất Thị Thu V. Chị V mua chiếc xe trên và đăng ký chính chủ năm 2011. Ngày 02/7/2019, chị Vân không biết bị cáo sử dụng chiếc xe trên làm phương tiện đi trộm cắp tài sản. Do vậy, cần trả lại cho chị V chiếc xe trên là phù hợp.

[5] Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 178; khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị Nguyễn Mạnh C 06 (sáu) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản” và 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Nguyễn Mạnh C phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 03/7/2019).

2. Áp dụng khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho chị Khuất Thị Thu V 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ BKS: 19F1-029.84 (có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/11/2019).

3. Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo Nguyễn Mạnh C phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết Bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 137/2019/HSST ngày 13/11/2019 về tội hủy hoại tài sản và trộm cắp tài sản

Số hiệu:137/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về