Bản án 136/2021/HS-ST ngày 08/09/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 136/2021/HS-ST NGÀY 08/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 08 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, xét xử sơ thẩm cụng khai vụ án Hình sự thụ lý số 133/2021/TLST - HS ngày 23 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 192/QĐXXST – HS ngày 24 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 20/2021/HSST-QĐ, ngày 07/9/2021, đối với bị cáo:

Trần Tuấn A, sinh ngày 01/7/1989 tại huyện QL, tỉnh Nghệ An, Nơi cư trú: Thôn ĐT, xã QL, huyện QL, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc Tịch: Việt Nam; con ông Trần Xuân P (đã chết) và bà Trần Thị H, sinh năm 1970; vợ: Trần Thị B (đã ly hôn), con: Có 02 con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2012; tiền án: Ngày 30/6/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu xử phạt 08 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, chấp hành xong ngày 05/8/2019; tiền sự: Ngày 25/5/2021 bị Công an huyện Quỳnh Lưu xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, chấp hành xong ngày 08/6/2021; nhân thân: Ngày 25/3/2008 bị Công an huyện Quỳnh Lưu xử lý vi phạm hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng, chấp hành xong ngày 26/3/2008. Ngày 04/4/2009 bị Công an huyện Quỳnh Lưu xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đA người gây thương tích. Ngày 28/11/2009 bị Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/6/2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1995, vắng mặt Trú tại: Thôn PT, xã TT, huyện QL, tỉnh Nghệ An;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 28/5/2021, Trần Tuấn A điều khiển xe mô tô Honda Wave vừa mượn của anh Trần Minh T chở Nguyễn Thị Ngọc A đi đến xã Tiến Thủy, huyện Quỳnh Lưu để đổ xăng tại cửa hàng xăng dầu MP, thuộc thôn Đức Xuân, xã Tiến Thủy, huyện Quỳnh Lưu. Do không mang theo tiền nên A đã cầm cố chiếc điện thoại cho bà Nguyễn Thị P để đổ 50.000đ tiền xăng. Quá trình đổ xăng, A nhìn thấy tại góc bên phải cửa hàng xăng dầu có dựng một chiếc xe máy điện loại JVC Xmen F1, BKS 37MĐ1- 938.59 của chị Nguyễn Thị N. Khi đó, A nảy sinh ý định trộm cắp tài sản nên khi đi ra khỏi cửa hàng xăng dầu khoảng hơn 100m thì A nói với Anh “Dừng xe lại cho em xuống, em quay lại lấy cây xe máy điện dựng ở ốt xăng” thì Tuấn A hiểu ý và dừng xe lại cho A xuống đi lại vị trí chiếc xe máy điện. Đồng thời Tuấn A cũng vòng xe quay lại và đi qua cửa hàng xăng dầu, đứng cách vị trí chiếc xe máy điện khoảng 20m để cảnh giới cho A trộm xe, nếu A bị phát hiện thì Tuấn A sẽ đi xe máy đến chở A chạy thoát. Lúc đó, A đi bộ lại vị trí chiếc xe máy điện, lợi dụng không có người trông coi quản lý nên A đã đẩy chiếc xe máy điện ra khỏi khu vực cửa hàng bán xăng dầu MP và đi về hướng xã Quỳnh Nghĩa. Do không có chìa khóa nên A dắt xe máy điện đi được khoảng 20m thì Tuấn A đi xe máy lên sát phía sau xe máy điện và dùng chân phải đẩy xe máy điện đi, còn A ngồi trên xe máy điện để điều khiển. Sau đó, Tuấn A và A đưa xe máy điện về cửa hàng sửa xe máy MD ở thôn Thuận Lợi, xã Quỳnh Thuận, huyện Quỳnh Lưu gặp anh Trần Bá T chủ cửa hàng để nhờ thay ổ khóa để sau đó sử dụng chiếc xe máy điện vừa trộm cắp được. Tại đây, A có mượn của anh T 300.000đ hẹn khi nào sửa xong xe sẽ đến trả, sau đó Tuấn A và A quay lại cửa hàng xăng dầu MP chuộc lại điện thoại, số tiền 250.000đ còn lại hai đối tượng mua đồ dùng cá nhân. Sáng ngày 29/5/2021, A đi đến gặp anh T và tiếp tục hỏi vay 500.000đ để đi mua sữa bầu, A cũng hẹn khi nào sửa xe xong sẽ trả tiền thì T đồng ý. Đến ngày 30/5/2021, do nhận thức được hành vi phạm tội của mình nên A đến Công an huyện Quỳnh Lưu đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình với Tuấn A. Ngày 01/6/2021, Trần Tuấn A đến Công an huyện Quỳnh Lưu đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại kết luận định giá tài sản số 183, ngày 04 tháng 6 năm 2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện Quỳnh Lưu kết luận: 01 (Một) chiếc xe máy điện BKS 37MĐ1-938.59, màu đen đỏ, nhãn hiệu JVC, số loại Xmen F1 có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 8.000.000đ vào ngày 28 tháng 5 năm 2021.

Bản cáo trạng số 147/CT- VKS - QL, ngày 22 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Ngọc A về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Trần Tuấn A về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thị Ngọc A do bị cáo đã chết ngày 18/8/2021; giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo Trần Tuấn A và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bÞ c¸o Trần Tuấn A phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Đề nghị: áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điề u 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Trần Tuấn A 12 - 15 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn về kinh tế nên miễn phạt tiền bổ sung.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không ai yêu cầu gì thêm nên miễn xét.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét toàn diện đầy đủ chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau.

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Lưu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo; người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo; người bị hại và cỏc tài liệu có trong hồ sơ, xết thấy phù hợp về thời gian, địa điểm mà bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt; có đủ cơ sở kết luận vào khoảng 13 giờ ngày 28/5/2021, Nguyễn Thị Ngọc A và Trần Tuấn A trém 01 xe máy điện biển kiểm soát 37MĐ1-938.59 của chị Nguyễn Thị N có giá trị tại thời điểm chiếm đoạt là 8.000.000đ.

Nguyễn Thị Ngọc A đã chết ngày 18/8/2021; ngày 24/8/2021 TAND huyện Quỳnh Lưu đã đình chỉ xét xử đối với A theo quyết định đình chỉ số 03/2021/HSST- QĐ. Tại phiên tòa Viện kiểm sát rút một phần quyết định truy tố đối với bị cáo A nên Tòa án chỉ tiến hành xét xử đối với hành vi đồng phạm của bị cáo Trần Tuấn A.

Đối với anh Trần Minh T, quá trình điều tra xác định anh T không biết chiếc xe máy điện A và Tuấn A nhờ sửa khóa là tài sản do phạm tội mà có nên không có căn cứ để xử lý.

Quá trình phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức và điều khiển hành vi phạm tội của mình là trái pháp luật nhưng do coi thường pháp luật nên đã thực hiện tội phạm liều lĩnh.

Hành vi của bị cáo thực hiện nêu trên có đủ căn cứ kết luận Trần Tuấn A phạm tội: "Trộm cắp tài sản”, tội phạm và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên toà là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội gây hoang mang, lo lắng trong cuộc sống bình thường của nhân dân. Bởi vậy, căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ phạm tội về tội trộm cắp tài sản và giá trị tài sản mà bị cáo và A chiếm đoạt cần thiết phải xử phạt nghiêm khắc bằng hình phạt tự, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện.

 [4] Bị cáo A có tình tiết tăng nặng là tái phạm.

Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai báo thành khẩn và ăn năn hối cải; đầu thú. Do đó, cần giảm nhẹ cho bị cáo một phần song cần thiết phải cách ly khỏi xã hội một thời gian dài như Viện kiểm sát đề nghị mới đủ điều kiện giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn về kinh tế nên miễn phạt tiền bổ sung.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không ai yêu cầu gì thêm nên miễn xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

2. Xử phạt: Bị cáo Trần Tuấn A 09 (chín) tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản "; thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (01/6/2021).

3.Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội; Buộc bị cáo Trần Tuấn A phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4.Bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 136/2021/HS-ST ngày 08/09/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:136/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về