TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 136/2020/HS-PT NGÀY 04/03/2020 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 04 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 48/2020/HSPT ngày 08 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Võ Thanh T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 196/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị cáo có kháng cáo:
Võ Thanh T; Sinh ngày: 20/4/1968 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: buôn bán; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp TL, xã TTH, huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh, Nơi cư trú: Ấp T, xã TTH, huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa: 09/12; Con ông: Võ Văn V (chết) và bà: Nguyễn Thị V (chết); hoàn cảnh gia đình: có chồng và 02 con, lớn nhất sinh năm 1993, nhỏ nhất sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú.
Bị cáo tại ngoại (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Võ Thanh T đã có hành vi nhiều lần thu mua nước giải khát, bia là tài sản có được từ hành vi trộm cắp tài sản của các bị cáo Phan Công T, Danh Trọng N, Trần Ngọc L. Cụ thể như sau: Lần 1: Vào 02 giờ 30 phút ngày 18/6/2019, Phan Công T, Danh Trọng N, Trần Ngọc L cùng rủ nhau đến quán nước mía thuộc Ấp A, xã PVA, huyện CC lén lút leo rào vào phía trong nhà của bà NTT lấy trộm 02 thùng nước tăng lực number one, 01 thùng nước tăng lực Wave up 247, 01 thùng nước soda, 01 thuốc lá Jet, 01 thùng bia Tiger, 02 thùng sữa Nuti Food, 01 tivi Samsung và số tiền 360.000 đồng. Sau khi T,N,L trộm được tài sản các bị cáo đã mang đi bán cho Võ Thanh T 04 thùng nước giải khát, 01 thùng bia Tiger với giá 400.000 đồng.
Lần 2: Cùng ngày 18/6/2019 vào lúc 04 giờ 30 phút, T,N,L lại thực hiện vụ trộm tài sản tại số nhà 55 đường số 9 thuộc ấp TĐ, xã TTH, huyện CC của ông LVS bao gồm: 400.000 đồng, 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A9, 02 thùng bia Tiger và sau đó tiếp tục mang đi bán cho T 02 thùng bia Tiger vừa trộm với giá 500.000 đồng.
Lần 3: Vào lúc 03 giờ ngày 23/6/2019, T và N cùng thực hiện vụ trộm tài sản là 08 thùng bia Tiger của quán “Hai Lúa” thuộc Ấp TL, xã TTH, huyện CC do Võ Phương Thlàm chủ. Sau khi trộm được tài sản, T,N mang đến chỗ T tiếp tục bán 08 thùng bia Tiger trên với giá 2.000.000 đồng.
Lần 4, Vào lúc 03 giờ ngày 28/6/2019, T và N lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tương tự lấy đi 02 thùng bia Tiger tại quán “Hai Lúa” trên. Sau khi trộm được tài sản, T,N mang đến chỗ T tiếp tục bán 02 thùng bia Tiger trên với giá 400.000 đồng.
Khi mua tất cả số nước ngọt và bia từ T,N,L, Võ Thanh T có biết về nguồn gốc của tất cả số tài sản trên đều là do hành vi trộm cắp tài sản của cả T,N,L, mà có nhưng do hám rẻ nên T vẫn đồng ý mua.
Ngoài các vụ trên, Phan Công T, Danh Trọng N, Trần Ngọc L còn cùng nhau thực hiện các vụ trộm vào các ngày 24/6/2019, 27/6/2019, 29/6/2019. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt của cả 05 vụ có sự tham gia của cả ba bị cáo T,N,L là 27.920.000 đồng. Riêng 2 bị cáo N và Th tham gia 02 vụ trộm vào ngày 23 và 28/6/2019 như đã nêu trên có tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 3.250.000 đồng.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 196/2019/HS-ST ngày 19 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân Huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Võ Thanh T phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Võ Thanh T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án. Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên phạt tù và trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các bị cáo Phan Công T, Danh Trọng N, Trần Ngọc L, đồng thời án sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng và thời hạn kháng cáo.
Ngày 21/11/2019, bị cáo T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và bổ sung yêu cầu xin được phạt tiền nếu không được hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất của vụ án, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt và đề nghị xử phạt bị cáo từ 06 (sáu) - 09 (chín) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản người khác phạm tội mà có”.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Ngày 19/11/2019, Tòa án nhân dân Huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án. Đến ngày 21/11/2019, bị cáo Võ Thanh T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin cho hưởng án treo. Đơn kháng cáo của bị cáo được lập trong trong thời hạn luật định nên hợp lệ. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo ngoài ra còn xin xem xét nếu không được hưởng án treo thì bị cáo xin được áp dụng hình phạt tiền.
[2] Qua tranh tụng tại phiên tòa hôm nay, bị cáo T khai báo thành khẩn thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Bản án sơ thẩm đã tuyên, do đó có cơ sở để xác định: Do ham rẻ, hám lợi nên bị cáo T (chủ quán ốc QN) đã có hành vi nhiều lần thu mua nước giải khát, bia là tài sản có được từ hành vi trộm cắp tài sản của các bị cáo Phan Công T, Danh Trọng N, Trần Ngọc L cụ thể vào các ngày 18/6/2019, 23/6/2019, 28/6/2019. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xét xử đối với bị cáo T về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:
Tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội 02 lần trở lên nên cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự là có cơ sở.
Tình tiết giảm nhẹ: cấp sơ thẩm cũng đã xem xét bị cáo T có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi, bị cáo đang nuôi con là Nguyễn Ngọc Tuyết Nbị khuyết tật về vận động - thần kinh tâm thần để áp dụng tình tiết giảm nhẹ hình phạt quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo là có căn cứ. [4] Xét kháng cáo, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận thấy:
Theo như đơn kháng cáo của bị cáo T và kháng cáo bổ sung tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo yêu cầu xin được áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền thay hình phạt tù, bị cáo trình bày hoàn cảnh gia đình khó khăn, bản thân đau ốm, lại là lao động chính trong gia đình nuôi con là Nguyễn Ngọc Tuyết N bị khuyết tật về vận động - thần kinh tâm thần (bại não – bẩm sinh), có chồng nhưng đã ly hôn theo Quyết định số 1358/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện CC. Bị cáo có nhân thân tốt, chưa từng có tiền án, tiền sự và có nơi cư trú rõ ràng; trong suốt quá trình điều tra, truy tố xét xử bị cáo luôn có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi.
Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận thấy cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi, và nuôi con nhỏ bị khuyết tật theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo T là phù hợp. Tuy nhiên, xét về tính chất, mức độ phạm tội và điều kiện hoàn cảnh của bị cáo T thì mức hình phạt 01 (một) năm tù mà cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo là có phần khá nghiêm khắc bởi mức độ phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, cách thức thực hiện giản đơn không có sự câu kết chặt chẽ, trình độ học vấn thấp, là lao động phổ thông dẫn đến khả năng nhận thức pháp luật có phần hạn chế, bị cáo là mẹ đơn thân có chồng nhưng đã ly hôn theo quyết định của Tòa án nên việc áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian sẽ gây khó khăn và bất lợi cho bị cáo trong việc chăm sóc, nuôi con gái khuyết tật. Đồng thời, Hội đồng xét xử cũng ghi nhận thái độ, nhân thân và nhận thức pháp luật của bị cáo như cấp sơ thẩm đã xem xét do đó nghĩ nên chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, áp dụng mức hình phạt tiền thay hình phạt tù cho bị cáo T cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe; tạo cơ hội cho bị cáo được sửa đổi, lao động để nuôi sống bản thân, gia đình và đồng thời cũng thể hiện được tinh thần nhân đạo, chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Võ Thanh T; Sửa Bản án sơ thẩm số 196/2019/HS-ST ngày 19 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 35 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Võ Thanh T số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).
3. Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự và căn cứ Điều 22 và 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quyết định về mức thu, miễn giám, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án ngày 30/12/2016, cùng danh mục án phí, lệ phí toà án;
Bị cáo Võ Thanh T không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 136/2020/HS-PT ngày 04/03/2020 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 136/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/03/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về