Bản án 136/2019/HS-ST ngày 10/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 136/2019/HS-ST NGÀY 10/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 149/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 139/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 8 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn Ng; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 15/11/1983 tại Điện Biên; Nơi cư trú: Bản M, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn T - Sinh năm 1962 và Con bà: Lò Thị S - Sinh năm 1960; Vợ: Lù Thị Th - Sinh năm: 1983; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 27/5/2019, sau đó bị tạm giam cho đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn Ng: Ông Ng Quang Kh - Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 27/5/2019, Lò Văn Ng đi bộ từ nhà tại Bản M, xã M, huyện Đ xuống bản L, xã M, huyện Đ để đi chơi. Khi Ng đang đi đến đầu bản L, thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 40 tuổi (không biết tên, địa chỉ) đi xe mô tô đến (Ng không nhớ biển số xe), dừng xe lại và hỏi Ng có biết chỗ nào bán Hồng phiến với Heroine không, Ng trả lời là có thì người đàn ông đó đưa cho Ng 200.000 đồng và bảo Ng đi mua 02 viên hồng phiến và Heroine, nếu không có hồng phiến thì mua hết Heroine để về cả hai người cùng sử dụng, Ng đồng ý. Sau đó, người đàn ông điều khiển xe mô tô, còn Ng ngồi sau xe chỉ đường đi mua ma túy, khi cả hai đi đến bản H, xã M, huyện Đ, Ng xuống xe bảo người đàn ông đứng ở ngoài đường đợi, còn Ng đi vào nhà Lý Văn Y, sinh năm 1982, gặp và đưa 200.000 đồng cho Y nhờ đi mua hộ 02 viên Hồng phiến và Heroine, nếu không có thì mua hết Heroine. Y đồng ý. Sau đó, Y cầm tiền đi đâu, làm gì Ng không biết. Khoảng 15 phút sau quay lại và đưa cho Ng 01 gói Heroine được gói ngoài bên ngoài bằng nilon màu xanh, tiếp đến là một lớp giấy bạc màu trắng. Ng cầm gói Heroine Y đưa mở ra kiểm tra xong gói lại như cũ, cất vào trong túi quần bên phải đang mặc, đi ra chỗ người đàn ông dân tộc Mông đang đứng đợi rồi cùng người đàn ông dân tộc Mông lên xe mô tô đi về. Hồi 12 giờ 30 phút ngày 27/5/2019, khi cả hai đi đến đầu bản L, xã M, huyện Đ thì bị Tổ công tác đồn Biên phòng M phối hợp với Công an huyện Đ và Công an xã M đang làm nhiệm vụ yêu cầu dừng xe kiểm tra. Khi thấy tổ công tác, người đàn ông dân tộc Mông đã quay đầu xe bỏ chạy, Tổ công tác tiến hành truy đuổi nhưng không bắt giữ được, còn Ng thì bắt quả tang, thu giữ trong túi quần bên phải Ng đang mặc 01 gói Heroine khối lượng 0,17 (không phẩy mười bảy) gam được gói bên ngoài bằng nilon màu xanh.

Tại bản kết luận giám định số: 542/GĐ-PC09 ngày 03/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Ng gửi giám định là ma túy loại Heroine, khối lượng vật chứng thu giữ của Ng gồm: 0,17 gam chất bột màu trắng. Heroine nằm trong danh mục chất ma túy, STT 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Không hoàn lại đối tượng giám định.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định trên của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên.

Về vật chứng của vụ án: Ngày 06/8/2019 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên đã chuyển vật chứng của vụ án sang cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Điện Biên gồm: 0,1 gam Heroine.

Bản cáo trạng số: 145/CT-VKS-HĐB ngày 02/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Ng về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Ng với mức hình phạt từ 12 đến 15 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản đối với bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 0,17 gam Heroine (đã trích 0,07 gửi giám định không hoàn lại) là vật chứng thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành là vật chứng của vụ án.

* Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và bản luận tội của Kiểm sát viên. Thực hiện lời nói sau cùng bị cáo Ng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại luận cứ bào chữa cho bị cáo Ng ngày 10/9/2019 ông Nguyễn Quang K đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo ở mức đầu khung hình phạt, không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo vì bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa Ng khai nhận do muốn có ma túy để sử dụng cho bản thân nên vào khoảng 09 giờ 30 phút ngày 27/5/2019, Ng đi bộ từ nhà đến đầu bản L, thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 40 tuổi (không biết tên, địa chỉ) đi xe mô tô đến dừng xe lại và hỏi Ng có biết chỗ nào bán Hồng phiến với Heroine không, Ng trả lời là có, người đàn ông đó đưa cho Ng 200.000 đồng và bảo Ng đi mua 02 viên hồng phiến và Heroine, nếu không có hồng phiến thì mua hết Heroine để về cả hai người cùng sử dụng. Sau đó, người đàn ông đó điều khiển xe mô tô đến bản H, xã M thì Ng xuống xe bảo người đàn ông đứng ở ngoài đường đợi, còn Ng đi vào nhà Lý Văn Y đưa cho Y 200.000 đồng nhờ đi mua hộ 02 viên Hồng phiến và Heroine, nếu không có thì mua hết Heroine. Khoảng 15 phút sau Y quay lại và đưa cho Ng 01 gói Heroine, Ng mở ra kiểm tra xong gói lại như cũ, cất vào trong túi quần bên phải đang mặc, đi ra chỗ người đàn ông dân tộc Mông đang đứng đợi rồi cùng người đàn ông dân tộc Mông lên xe mô tô đi về. Đến 12 giờ 30 phút ngày 27/5/2019, khi cả hai đi đến đầu bản L, xã M, huyện Đ thì bị Tổ công tác đang làm nhiệm vụ yêu cầu dừng xe kiểm tra, người đàn ông đó đã quay đầu xe bỏ chạy, Tổ công tác tiến hành truy đuổi nhưng không bắt giữ được, còn Ng thì bắt quả tang, thu giữ trong túi quần bên phải Ng đang mặc 01 gói Heroine khối lượng 0,17 (không phẩy mười bảy) gam được gói bên ngoài bằng nilon màu xanh.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra tiến hành thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử đã đủ cơ sở kết luận: Hồi 12 giờ 30 phút ngày 27/5/2019, tại bản L, xã M, huyện Đ, Ng đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,17gam Heroine với mục đích để sử dụng. Như vậy, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là Heroine có khối lượng 0,17 gam của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, bản luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

Ng là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Từ những phân tích trên, khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Ng về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, bởi nó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Vì vậy, việc truy tố, xét xử và áp dụng mức hình phạt thỏa đáng đối với bị cáo là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Nguyên nhân chính dẫn đến phạm tội là do bị cáo nghiện ma túy từ năm 2016 cho đến nay, vì muốn có ma túy để phục vụ cho nhu cầu của bản thân nên đã bất chấp pháp luật dấn thân vào con đường phạm tội. Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy để thể hiện sự khoan hồng của Đảng, Pháp luật của Nhà nước ta đối với người phạm tội, Hội đồng xét xử cần xem xét giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho bị cáo khi lượng hình. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cần xử bị cáo ở mức khởi điểm và cách ly bị cáo một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ý thức chấp hành pháp luật, đồng thời đây cũng là điều kiện thuận lợi để bị cáo từ bỏ được ma túy sớm trở lại hòa nhập với gia đình và cộng đồng.

Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù có thời hạn với mức hình phạt từ 12 đến 15 tháng tù đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, phù hợp với quy định của pháp luật, cần chấp nhận.

Đối với đề nghị của người bào chữa về việc xử phạt bị cáo ở mức đầu khung, miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo bởi sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo của người bào chữa là có căn cứ chấp nhận.

Ngoài hình phạt chính, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, thu nhập từ nghề làm ruộng thấp, bị cáo sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện Điện Biên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Về xử lý vật chứng: Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 0,72 gam Heroine là vật chứng còn lại sau khi giám định.

[6] Về các vấn đề khác: Lý Văn Y là người đã mua hộ ma túy cho Lò Văn Ng, quá trình điều tra Cơ quan điều tra không ghi được lời khai do Y vắng mặt tại địa phương, đi đâu làm gì không ai biết, nên chưa làm rõ được hành vi của Y. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Đối với người đàn ông dân tộc Mông, khoảng 40 tuổi đưa tiền và dùng xe mô tô chở Ng đi mua ma túy để mang về cùng nhau sử dụng. Do bị cáo không biết tên và địa chỉ, không nhớ biển số xe mô tô của người đó nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ. Vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập việc xử lý đối với người này.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm nhưng do bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14, Hội đồng xét xử quyết định miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự

Tuyên bố bị cáo Lò Văn Ng phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo: Lò Văn Ng 12 (Mười hai) tháng .

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (27/5/2019).

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 0,1 (Không phẩy một) gam Heroine là vật chứng còn lại sau khi giám định.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/8/2019 giữa Công an huyện Điện Biên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

4. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn Ng.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự bị cáo Ng có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (10/9/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 136/2019/HS-ST ngày 10/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:136/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về