Bản án 136/2019/HS-ST ngày 04/10/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 136/2019/HS-ST NGÀY 04/10/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 04 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 128/2019/TLST-HS ngày 20 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 454 /2019/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đỗ Việt T; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không có; Sinh ngày 07/7/1970; Nơi sinh: huyện T, tỉnh P; Nơi đăng kí hộ khẩu thường trú + chỗ ở: Khu 3, phường V, thành phố V, tỉnh P; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Đỗ Việt D và bà Mai Thị T; Vợ: Ngô Thị M (đã ly hôn); Vợ: Tô Thị D; Con: Có 04 con, lớn sinh năm 1993; nhỏ sinh năm 2018; Anh, chị, em ruột: Không; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

+ Bản án số 26 ngày 19/5/1999, Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì xử phạt Đỗ Việt T 3 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân” (Đã chấp hành xong hình phạt chính và các quyết định khác của bản án năm 2009).

+ Bản án số 16 ngày 20/01/2006, Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì xử phạt Đỗ Việt T 36 tháng tù về tội “Tham ô tài sản”, nH cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 tháng (Đã chấp hành xong hình phạt chính và các quyết định khác của bản án ngày 20/01/2011).

+ Bản án số 147 ngày 25/9/2015, Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì xử phạt 3 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Số tiền đánh bạc là 2.400.000 đồng. (Đã chấp hành xong hình phạt chính và các quyết định khác của bản án ngày 28/12/2015).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/7/2019, đến ngày 07/7/2019 được thay thế bằng biện pháp "Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện bị cáo đang ở tại Khu 3, phường V, thành phố V, tỉnh P;

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 17 giờ 20 phút, ngày 04/7/2019, tổ công tác đội Điều tra Hình sự Công an thành phố Việt Trì bắt quả tang tại nhà của Đỗ Việt T - sinh năm 1970, ở khu 3, phường V, thành phố V, tỉnh P, T đang thực hiện hành vi đánh bạc bằng hình thức bán số lô cho Phạm Duy H, sinh năm 1989, trú tại khu C, phường M và Nguyễn Văn H, sinh năm 1993, trú tại khu 8, phường M, thành phố V, tỉnh P. Vật chứng thu giữ gồm: Thu của Đỗ Việt T 01 tờ giấy khổ A4 có viết các con số tự nhiên, T khai nhận đây là các số lô bán cho H và H; 01 bút bi mực màu xanh và số tiền 5.400.000 đồng; Thu của Phạm Duy H 01 cáp lô có ghi các số 57, 36, 64, 65, 80 và 01 bút mực màu đen; Thu của Nguyễn Văn H 01 cáp lô có ghi các số 20, 88, 66.

Quá trình điều tra làm rõ, Đỗ Việt T không được cấp phép làm đại lý bán xổ số, lô tô Nhà nước nhưng vì muốn thu lời bất chính nên đã tự đứng ra bán số lô. Cách thức chơi là dựa trên kết quả mở thưởng của xổ số miền Bắc trong ngày để xác định thắng thua. Lấy hai số cuối của tất cả các giải tính là số lô, gồm 100 số có 2 chữ số từ 00 đến 99, người chơi sẽ tự chọn các con số để mua. Mỗi điểm lô, T bán cho người chơi với giá 20.000 đồng, nếu người chơi thắng thì 01 điểm lô sẽ được T trả 70.000 đồng, việc trả tiền được thực hiện vào ngày hôm sau. Khoảng 17 giờ 15 phút, ngày 04/7/2019, T đang ở nhà thì Phạm Duy H và Nguyễn Văn H tới hỏi mua số lô. Phạm Duy H là người mua trước, H đưa cho T một mảnh giấy có viết sẵn các số lô 57, 36, 64, 65, 80, mỗi số 30 điểm, tổng là 150 điểm tương đương với 3.000.000 đồng. T viết lại các con số vào tờ giấy A4 của mình để sau khi có kết quả sẽ đối chiếu. Sau khi viết xong T nhận 3.000.000 đồng H đưa. Sau đó, Nguyễn Văn H cũng đưa cho T một mảnh giấy có viết sẵn các số lô 20, 88, 66 mỗi số 40 điểm, tổng là 120 điểm tương đương với 2.400.000 đồng, T cũng viết các số lô trên vào tờ giấy A4. Sau khi T nhận tiền của H thì lực lượng Công an thành phố Việt Trì phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên. Hành vi đánh bạc của Đỗ Việt T bị phát hiện trước khi có kết quả mở thưởng nên T phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với số tiền 5.400.000 đồng.

Đi với Phạm Duy H và Nguyễn Văn H, quá trình điều tra xác định nhưng hành vi mua số lô là vi phạm pháp luật nhưng số tiền mà H và H dùng để đánh bạc chưa tới mức để xử lý hình sự, bản thân H và H chưa có tiền án, tiền sự về tội “Đánh bạc” hoặc “Tổ chức đánh bạc, gá bạc” nên Công an thành phố Việt Trì đã quyết định xử phạt hành chính đối với H và H.

Đi với 01 bút mực màu đen và 01 cáp lô có ghi các con số 57, 36, 64, 65, 80 thu của Phạm Duy H; 01 cáp lô có ghi các con số 20, 88, 66 thu của Nguyễn Văn H; 01 tờ giấy khổ A4 có viết các con số tự nhiên; 01 bút bi có mực màu xanh và số tiền 5.400.000 đồng thu của Đỗ Việt T đều dùng vào mục đích đánh bạc được chuyển theo hồ sơ vụ án để xử lý theo quy định của pháp luật.

Về điều kiện kinh tế của bị can quá trình điều tra xác định: Đỗ Việt T sống cùng gia đình tại địa phương, ngoài vật dụng sinh hoạt hàng ngày thì không có tài sản riêng gì có giá trị.

Về tài sản, thu nhập: Bị cáo sống cùng gia đình tại địa phương, ngoài vật dụng sinh hoạt hàng ngày thì không có tài sản riêng gì có giá trị.

Bản cáo trạng số 137/CT-VKS-VT ngày 18/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Đỗ Việt T về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự;

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì vẫn giữ nguyên quan điểm như bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt chính: Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; khon 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Đỗ Việt T phạm tội “Đánh bạc”;

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Việt T 24(Hai mươi tư) đến 28(Hai mươi tám) tháng cải tạo không giam giữ được khấu trừ 3 ngày tạm giữ theo quy định của pháp luật.

Hình phạt bổ sung: Phạt bổ sung đối với bị cáo Đỗ Việt T 10.000.000đ để sung công quỹ nhà nước.

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a,b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; đim a,b,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để xử lý vật chứng của vụ án.

* Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Đỗ Việt T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Việt T không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

Ti phiên tòa bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất ân hận đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng:

Cơ quan điều tra - Công an thành phố Việt Trì, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi cấu thành tội phạm của bị cáo:

Hi 17 giờ 20 phút, ngày 04/7/2019, tại nhà của Đỗ Việt T thuộc khu 3, phường V, thành phố V, tỉnh P, Tổ công tác đội Điều tra Hình sự Công an thành phố Việt Trì bắt quả tang Đỗ Việt T đang có hành vi đánh bạc với hình thức bán số lô cho Phạm Duy H và Nguyễn Văn H. Tổng số tiền mà Đỗ Việt T đánh bạc với Phạm Duy H và Nguyễn Văn H là 5.400.000 đồng Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng và gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân.

Do vậy, Bị cáo Đỗ Việt T phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Đánh bạc”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự:

Khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự quy định:

“Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”

[3]. Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, làm mất trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác cũng như ảnh hưởng đến kinh tế và H phúc gia đình. Song vì mục đích vụ lợi nên bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy cần áp dụng mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo nhằm cải tạo bị cáo và đáp ứng yều cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.

[4]. Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như sau:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Đỗ Việt T không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bố mẹ bị cáo có công với phạm được thưởng huân huy chương nên bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cùng các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo Đỗ Việt T có nơi cư trú rõ ràng, chấp hành đúng chính sách pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi cư trú, đã được xóa án tích từ năm 2012. Đối với bản án ngày 25/9/2015 với số tiền đánh bạc là 2.400.000,đồng ( ở bản án này bị cáo chưa bị kết án về tội đánh bạc, chưa bị xử lí hành chính về hành vi đánh bạc), nay hành vi này của bị cáo không cấu thành tội đánh bạc nữa, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt của bản án này thì đương nhiên được xóa án tích. Do vậy không cần thiết phải cách ly bị cáo mà có thể áp dụng Điều 36 Bộ luật hình sự cho bị cáo cải tạo ngoài xã hội cũng đủ để giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Qua xác minh hiện tại bị cáo không có nguồn thu nhập ổn định nên miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo là phù hợp.

[5]. Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại khoản 1- Điều 321 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng xét thấy có thể áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo để đảm bảo tính nghiêm minh của hình phạt.

6]. Về vật chứng:

Đi với 01 bút mực màu đen và 01 cáp lô có ghi các con số 57, 36, 64, 65, 80 thu của Phạm Duy H; 01 cáp lô có ghi các con số 20, 88, 66 thu của Nguyễn Văn H; 01 tờ giấy khổ A4 có viết các con số tự nhiên; 01 bút bi có mực màu xanh và số tiền 5.400.000 đồng thu của Đỗ Việt T đều dùng vào mục đích đánh bạc là vật chứng của vụ án không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với Phạm Duy H, Nguyễn Văn H là những người đã có hành vi đánh bạc với Đỗ Việt T dưới hình thức mua bán số lô, đề vào ngày 04/7/2019 là độc lập với nhau, do số tiền Phạm Duy H, Nguyễn Văn H sử dụng để đánh bạc của mỗi người đều dưới 5.000.000 đồng; bản thân Phạm Duy H, Nguyễn Văn H đều chưa có tiền sự, tiền án về tội “Đánh bạc” hoặc tội “Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc” nên Công an thành phố Việt Trì quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Phạm Duy H, Nguyễn Văn H hình thức phạt tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, mức phạt mỗi người 200.000 đồng xét thấy là phù hợp.

Về án phí: Bị cáo Đỗ Việt T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự.

- Căn cứ điểm a,b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a,b,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; đim a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Đỗ Việt T phạm tội “ Đánh bạc”;

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Việt T 24 (hai mươi tư) tháng cải tạo không giam giữ. Bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ từ 04/7/2019 đến 07/7/2019 là ba ngày tạm giữ bằng chín ngày cải tạo không giam giữ. Thời gian còn lại phải chấp hành là 23 (Hai mươi ba) tháng 21 (Hai mốt) ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan tổ chức được giao giám sát giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Đỗ Việt T cho UBND phường V, TP V tỉnh P giám sát giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

Hình phạt bổ sung: Xử phạt bổ sung đối với bị cáo Đỗ Việt T 10.000.000 đ (Mười triệu đồng) để xung quỹ Nhà nước.

* Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu số tiền 5.400.000 đồng của Đỗ Việt T đều dùng vào mục đích đánh bạc để sung công quỹ nhà nước.

- Tịch thu tiêu hủy:

Đi với 01 bút mực màu đen và 01 cáp lô có ghi các con số 57, 36, 64, 65, 80 thu của Phạm Duy H; 01 cáp lô có ghi các con số 20, 88, 66 thu của Nguyễn Văn H; 01 tờ giấy khổ A4 có viết các con số tự nhiên; 01 bút bi có mực màu xanh (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/9/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Việt Trì)

* Về án phí:

Buộc bị cáo Đỗ Việt T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương nơi cư trú để đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

287
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 136/2019/HS-ST ngày 04/10/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:136/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về