Bản án 136/2019/HNGĐ-ST ngày 25/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 136/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 25 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 572/2019/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 8 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 143/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 10 năm 2019; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1983; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Địa chỉ: Ấp B, xã H, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1981; vắng mặt.

Địa chỉ: Ấp B, xã H, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:

Chị và anh Nguyễn Tuấn A chung sống với nhau vào năm 2004, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Trảng Bàng. Sau khi cưới, vợ chồng chị về sống tại nhà của cha mẹ chồng cho thuộc ấp B, xã H, huyện Trảng Bàng. Chị làm công nhân, anh A làm thợ hớt tóc, kinh tế độc lập với gia đình. Cuộc sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình vợ, chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không thể thông cảm cho nhau. Ngoài ra, anh A còn thường chơi cờ bạc, chị khuyên can nhiều lần nhưng anh A vẫn không thay đổi. Chị nghi ngờ anh A có mối quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác nên vào tháng 01-2019, anh A dọn ra ngoài sinh sống, vợ chồng đã tự ly thân đến nay. Hiện tại, chị không còn lòng tin về tình cảm đối với anh A, tình cảm vợ chồng đã phai nhạt, không thể hàn gắn được. Nay chị yêu cầu được ly hôn anh A.

Về con chung: Vợ chồng chị có 02 người con chung là cháu Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 02-01-2005 và cháu Nguyễn T, sinh ngày 18-10-2010. Cháu K và cháu T hiện đang sống cùng với chị, hai cháu rất khỏe mạnh, phát triển bình thường, không bị bệnh tật, dị tật bẩm sinh.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Vợ chồng chị không nợ ai, không yêu cầu giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã niêm yết, tống đạt thông báo thụ lý vụ án, triệu tập anh Nguyễn Tuấn A đến Toà lấy lời khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải, tham gia phiên toà nhưng anh A vắng mặt nên không thể hiện được lời trình bày và yêu cầu của anh A.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình xem xét quyết định:

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị H đối với anh Nguyễn Tuấn A. Chị H được ly hôn anh A.

Về con chung: Đề nghị giao chị H tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 02-01-2005 và cháu Nguyễn T, sinh ngày 18-10-2010. Ghi nhận chị H không yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị H và anh A không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

Về án phí: Chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị H vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Anh Nguyễn Tuấn A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh A tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2004, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H. Do đó, hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và vợ chồng tự ly thân từ tháng 01-2019 đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị H trình bày là do tính tình vợ, chồng không còn phù hợp với nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên không thể thông cảm cho nhau. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị H xác định không còn lòng tin về tình cảm đối với anh A, tình cảm vợ chồng đã phai nhạt, không thể hàn gắn được và giữ nguyên yêu cầu được ly hôn anh A, cho thấy đời sống hôn nhân của anh, chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, khả năng đoàn tụ giữa chị H và anh A đã không còn. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H đối với anh A, cho chị H được ly hôn anh A là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về con chung: Vợ chồng chị H, anh A có 02 người con chung là cháu Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 02-01-2005 và cháu Nguyễn T, sinh ngày 18-10-2010. Khi ly hôn, chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu K và cháu T. Xét thấy, từ khi chị H và anh A ly thân, chị H là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu K và cháu T, hiện hai cháu phát triển rất tốt về thể chất lẫn tinh thần. Toà án đã tiến hành hỏi ý kiến cháu K và cháu T, cả hai cháu đều có nguyện vọng được theo sống với mẹ khi cha, mẹ ly hôn. Do đó, Hội đồng xét xử giao cháu K và cháu T cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Ghi nhận chị H không yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

[5] Như phân tích trên thì đề nghị của Viện kiểm sát về quan điểm giải quyết vụ án là có cơ sở chấp nhận.

[6] Án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị H đối với anh Nguyễn Tuấn A.

Chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Nguyễn Tuấn A.

2. Về con chung:

Giao chị Nguyễn Thị H tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 02-01-2005 và cháu Nguyễn T, sinh ngày 18-10- 2010.

Ghi nhận chị H không yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con.

Anh A có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0017481 ngày 14 tháng 8 năm 2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Chị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh A vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 136/2019/HNGĐ-ST ngày 25/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:136/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về