Bản án 136/2018/HS-ST ngày 10/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 136/2018/HS-ST NGÀY 10/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 135/2018/TLST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 138/2018/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo: Vũ Thanh T (tức Vũ Văn G, Hoàng Đình C, Vũ Văn T), sinh năm 196A tại H.P. Nơi cư trú: Tổ 11 khu 1A, phường V.N, L.C, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 5/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn B và bà Hoàng Thị H; có vợ là Nguyễn Thị H và 01 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Tại Bản án số 10/HSST/1984 ngày 26/01/1984 Tòa án nhân dân thị xã Hải Dương (nay là Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương) và án số 46/HSPT/1984 ngày 20/3/1984 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xử 36 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản riêng của công dân (đã được xóa án tích); tại Bản án số 19/HSST ngày 18/8/1989 của Tòa án nhân dân thị xã Kiến An xử 18 tháng tù cho hưởng án treo về tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản của công dân (đã được xóa án tích); tại Bản án số 92/HSST ngày 17/7/1991 Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng xử 9 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản công dân, tổng hợp hình phạt 18 tháng của bản án số 19/HSST ngày 18/8/1989 của Tòa án nhân dân thị xã Kiến An là 27 tháng tù (đã được xóa án tích); tại Bản án số 30/HSST ngày 29/3/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho và án số 56/HSPT ngày 31/5/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xử 36 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, tổng hợp hình phạt còn lại của bản án số 46/HSPT ngày 20/3/1984 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương 11 tháng 25 ngày là 47 tháng 25 ngày (đã được xóa án tích); bị tạm giữ từ ngày 07/6/2018; tạm giam từ ngày 09/6/2018; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 45 phút, ngày 07/6/2018 Tổ công tác công an quận Lê Chân bắt quả tang Vũ Thanh T có biểu hiện tàng trữ trái phép chất ma túy tại trước cửa nhà số 34 đường vòng Cầu Niệm. Thu giữ tại túi áo ngực bên phải T đang mặc 02 gói giấy nhỏ màu đỏ bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy. Ngoài ra còn thu giữ của T 01 xe mô tô Biển kiểm soát: 16R4-1904. Tổ công tác đưa T cùng vật chứng về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại bản kết luận giám định số 306/KLGĐ ngày 07/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của T là loại Heroin, trọng lượng 0,2134 gam.

Tại cơ quan điều tra, Vũ Thanh T khai: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 07/6/2018 T điều khiển xe mô tô Biển kiểm soát: 16R4-19XX một mình đến bờ đê sông L.T, Quận Lê Chân, Hải Phòng để mua ma túy về sử dụng. Đến nơi, T gặp một phụ nữ mặt bịt khẩu trang (chưa xác định được căn cước lai lịch) và hỏi mua của người này 200.000 đồng heroin. Người phụ nữ đồng ý và đưa cho T 2 gói giấy màu đỏ trong đó có heroin. T cất 02 gói heroin vào túi áo ngực bên phải rồi điều khiển xe mô tô đến khu vực nhà số 34 đường Vòng cầu N thì bị lực lượng công ankiểm tra, bắt giữ.

Tại bản cáo trạng số 143/CT-VKS ngày 12 tháng 9 năm 2018 của Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng đã truy tố Vũ Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa, Vũ Thanh T đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung vụ án đã nêu.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt Vũ Thanh T từ 18 đến 24 tháng tù. Về xử lý tang vật: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định.

Do bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với đối tượng nữ giới bán ma túy cho T do không xác định được căn cước lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận Lê Chân không có cơ sở để điều tra.

Đối với chiếc xe mô tô BKS: 16R4-19XX, T khai mượn của vợ là Nguyễn Thị H, sinh năm 197B, nơi cư trú: Tổ 11 khu 1A V.N, Quận L.C, Hải Phòng để đi làm xe ôm. T không nói cho chị H biết là dùng xe để đi mua ma túy. Qua xác minh đó là tài sản hợp pháp của chị H, chị H không biết việc T dùng xe để đi mua ma túy nên cơ quan công an đã trả lại cho chị H chiếc xe trên để quản lý sử dụng nên không xét.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã

được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố của cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Lời khai của bị cáo tại phiên phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, nội dung bản kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa. Thể hiện: Vào hồi 14 giờ 45 phút ngày 07/6/2018 tại khu vực trước cửa nhà số 34 đường Vòng Cầu N, phường N.X, Quận Lê Chân, Hải Phòng, Vũ Thanh T (tên gọi khác là Vũ Văn G, Hoàng Đình C, Vũ Văn T) đã có hành vi cất giữ 0,2134 gam heroin với mục đích để sử dụng cho bản thân, sau đó bị bắt giữ quả tang. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.

 [3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về chất gây nghiện; gây mất trật tự trị an xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân nên cần phải áp dụng hình phạt nghiêm.

 [4] Về nhân thân: Bị cáo có 4 tiền án: Tại Bản án số 10/HSST/1984 ngày 26/01/1984 Tòa án nhân dân thị xã Hải Dương (nay là Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương) và án số 46/HSPT/1984 ngày 20/3/1984 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xử 36 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản riêng của công dân; tại Bản án số 19/HSST ngày 18/8/1989 của Tòa án nhân dân thị xã Kiến An xử 18 tháng tù cho hưởng án treo về tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản của công dân; tại Bản án số 92/HSST ngày 17/7/1991 Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng xử 9 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản công dân. Tổng hợp hình phạt 18 tháng của bản án số 19/HSST ngày 18/8/1989 của Tòa án nhân dân thị xã Kiến An là 27 tháng tù; tại Bản án số 30/HSST ngày 29/3/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho và án số 56/HSPT ngày 31/5/2007 của TAND tỉnh Tiền Giang xử 36 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Tông hợp hình phạt còn lại của bản án số 46/HSPT ngày 20/3/1984 của TAND tỉnh Hải Dương 11 tháng 25 ngày là 47 tháng 25 ngày. Các tiền án trên đều đã được xóa nhưng cho thấy bị cáo là người có nhân thân xấu, ý thức chấp hành pháp luật kém.

 [5] Về hình phạt chính: Xét hành vi, nhân thân bị cáo như trên cần áp dụng hình phạt nghiêm, cách ly khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời tạo điều kiện cho bị cáo cai nghiện ma túy.

 [6] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là thành khẩn khai báo.

 [7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [8] Về xử lý vật chứng: Số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

 [9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo luật định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Vũ Thanh T (tức Vũ Văn G, Hoàng Đình C, Vũ Văn T) 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 07 tháng 6 năm 2018.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng số ma túy còn lại sau giám định, niêm phong số 306/2018/PC54 (theo biên bản giao nhận tài sản, vật chứng ngày 12/9/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận Lê Chân).

- Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc Vũ Thanh T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 136/2018/HS-ST ngày 10/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:136/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về