Bản án 135/2021/HNGĐ-ST ngày 28/08/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 135/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 28 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 122/2021/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2021, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 136/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 26/7/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 112/2021/QĐST-HNGĐ ngày 11/8/2021, giữa:

- Nguyên đơn: Chị Đoàn Minh Th, sinh năm 1992. Địa chỉ: Thôn HC, xã Ph, huyện Gi, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Đoàn Văn M, sinh năm 1988.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn HC, xã Ph, huyện Gi, tỉnh Hải Dương.

Hiện đang cư trú tại: Đài Loan.

Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phạm Thị Nh, sinh năm 1965. Địa chỉ: Thôn HC, xã Ph, huyện Gi, tỉnh Hải Dương.

Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, các bản khai - Nguyên đơn chị Đoàn Minh Th trình bày: Chị và anh Đoàn Văn M được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Ph, huyện Gi, tỉnh Hải Dương vào ngày 10/9/2012. Vợ chồng chung sống đến năm 2014 thì anh M đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan, thời gian đầu anh M có liên lạc về nhà và có về phép một lần vào cuối năm 2015 sau đó anh M tiếp tục sang Đài Loan làm ăn nhưng kể từ đó vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống và quan điểm định hướng cho tương lai, cứ mỗi lần anh M liên lạc về nhà là vợ chồng lại xảy ra cãi nhau khiến cho cuộc sống căng thẳng, nặng nề, vợ chồng cùng cố gắng cho nhau thời gian để suy nghĩ lại nhưng mâu thuẫn vẫn không được giải quyết. Thời gian một năm gần đây anh không liên lạc về cho chị nữa, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau, tình cảm phai nhạt, kinh tế anh cũng không gửi về cho chị để nuôi con. Chị và gia đình cùng khuyên anh về nước làm ăn và đoàn tụ gia đình nhưng anh không về. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đoàn Văn M.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Đoàn Bảo L, sinh ngày 22/9/2013, hiện con đang ở với bà nội là Phạm Thị Nh. Chị nhất trí giao con cho anh M nuôi dưỡng và nhất trí giao con cho bà Nh nuôi dưỡng trong thời gian anh M không có mặt tại Việt Nam, chị tự nguyện cấp dưỡng tiền nuôi con là 1.000.000đ/1tháng cho đến khi con thành niên (tròn 18 tuổi).

Về tài sản, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà Phạm Thị Nh (mẹ đẻ anh M) trình bày: Bà không biết địa chỉ cụ thể của anh M ở nước ngoài nên không cung cấp được cho Tòa án. Tuy nhiên anh M vẫn thường xuyên liên lạc điện thoại về gia đình. Bà đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh M biết. Thông qua gia đình, anh M có quan điểm xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh nhất trí ly hôn và đề nghị được nuôi dưỡng con chung là Đoàn Bảo L, anh nhất trí việc chị Th tự nguyện cấp dưỡng cho con là 1.000.000đ/1tháng cho đến khi con thành niên (tròn 18 tuổi). Trong thời gian anh không có mặt tại Việt Nam, anh ủy quyền cho bà Nh nuôi dưỡng con chung. Về tài sản chung anh M không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà Nh nhất trí nhận sự ủy quyền của anh M về việc chăm sóc, nuôi dưỡng cháu L trong thời gian anh M không có mặt tại Việt Nam, bà không yêu cầu chị Th, anh M phải có trách nhiệm cấp dưỡng.

Con chung của chị Th, anh M là cháu Đoàn Bảo L có nguyện vọng được ở với anh M và ông bà nội.

Tòa án xác minh tại chính quyền địa phương nơi chị Th, anh M đăng ký kết hôn và cư trú thể hiện: Trong thời gian chung sống, anh M đi xuất khẩu lao động nhiều năm nay, chị Th ở nhà làm công ty, vợ chồng chủ yếu sống xa nhau, mỗi người ở một nơi, tình cảm không có sự vun đắp, chia sẻ nên dần phai nhạt. Nay, chị Th có đơn xin ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật sao cho đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56; 81; 82 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đoàn Minh Th được ly hôn anh Đoàn Văn M. Về con chung: Giao con chung Đoàn Bảo L cho anh M nuôi dưỡng cho đến khi thành niên (tròn 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị Th cấp dưỡng tiền nuôi con là 1.000.000đ/1tháng. Tạm giao con chung Đoàn Bảo L cho bà Phạm Thị Nh nuôi dưỡng, giáo dục trong thời gian anh M ở nước ngoài. Chị Th phải chịu án phí hôn nhân gia đình và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Đoàn Minh Th hiện đang sinh sống ở Việt Nam, bị đơn anh Đoàn Văn M có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh tại thôn HC, xã Ph, huyện Gi, tỉnh Hải Dương, hiện đang lao động tại Đài Loan. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Th không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh M ở nước ngoài. Tòa án đã nhiều lần đề nghị gia đình anh M cung cấp địa chỉ nhưng gia đình không cung cấp được. Tòa án cũng tống đạt các văn bản tố tụng cho người thân trong gia đình anh M và gia đình đã thông báo cho anh M biết việc Tòa án đang giải quyết vụ án ly hôn giữa chị Th và anh M. Đồng thời Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định. Tại phiên tòa lần thứ hai chị Th vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh M, bà Nh vắng mặt và có quan điểm đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đoàn Minh Th và anh Đoàn Văn M kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Ph, huyện Gi, tỉnh Hải Dương vào ngày 10/9/2012, là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống đến năm 2014 thì anh M đi xuất khẩu lao động tại Đào Loan, vợ chồng cũng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn từ đó, nguyên nhân là do quan điểm sống bất đồng nên mỗi khi anh M liên lạc về nhà là vợ chồng lại xảy ra cãi chửi nhau. Bản thân anh chị và gia đình cũng đã tìm cách tháo gỡ nhưng mâu thuẫn không thể khắc phục được. Hơn nữa, thời gian anh M đi nước ngoài đã lâu, vợ chồng sống xa cách, tình cảm không được vun đắp, chia sẻ nên không còn, vợ chồng sống ly thân từ lâu, không ai quan tâm đến ai. Chị Th xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh M. Anh M ở nước ngoài nhưng thông qua gia đình cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên có quan điểm đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Th và anh M đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Th được ly hôn anh M là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị Đoàn Minh Th và anh Đoàn Văn M có một con chung là Đoàn Bảo L, sinh ngày 22/9/2013, hiện con đang ở với bà nội là Phạm Thị Nh. Thông qua gia đình anh M có quan điểm được nuôi con cho đến khi thành niên (tròn 18 tuổi) và ủy quyền cho bà Nh nuôi dưỡng con chung trong thời gian anh không có mặt tại Việt Nam. Bà Nh nhất trí nhận sự ủy quyền chăm sóc con của anh M. Xét thấy, chị Th nhất trí giao con cho anh M nuôi dưỡng; con chung Đoàn Bảo L có nguyện vọng được ở với anh M và ông bà nội, chị Th tự nguyện cấp dưỡng tiền nuôi con chung là 1.000.000đ/1 tháng cho đến khi thành niên và nhất trí giao con cho bà Nh nuôi dưỡng trong thời gian anh M không có mặt tại Việt Nam. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận giao con chung Đoàn Bảo L cho anh M nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận sự tự nguyện của chị Th về việc cấp dưỡng tiền nuôi con là 1.000.000đ/1tháng cho đến khi con thành niên. Trong thời gian anh M không có mặt tại Việt Nam, tạm giao con chung Đoàn Bảo L cho bà Nh chăm sóc nuôi dưỡng.

[2.3] Về tài sản, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[3]. Về án phí: Chị Đoàn Minh Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về Hôn nhân gia đình và án phí dân sự về cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5; điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đoàn Minh Th.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đoàn Minh Th ly hôn anh Đoàn Văn M.

2. Về quan hệ con chung: Xử giao cho anh Đoàn Văn M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Đoàn Bảo L, sinh ngày 22/9/2013 cho đến khi con tròn 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Th cấp dưỡng tiền nuôi con là 1/000.000đ/1tháng kể từ tháng 9/2021 cho đến khi con đủ 18 tuổi. Tạm giao con chung Đoàn Bảo L cho bà Phạm Thị Nh chăm sóc, nuôi dưỡng trong thời gian anh M không có mặt tại Việt Nam.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Kể từ khi anh Đoàn Văn M có đơn yêu cầu thi hành án về khoản tiền cấp dưỡng nuôi con, chị Đoàn Minh Th chậm thi hành khoản tiền trên thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất được tính theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự.

3. Về tài sản, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Đoàn Minh Th phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình), được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0006359 ngày 17/6/2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

Chị Đoàn Minh Th phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm dân sự về cấp dưỡng nuôi con.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Đoàn Minh Th và bà Phạm Thị Nh được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Đoàn Văn M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 135/2021/HNGĐ-ST ngày 28/08/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:135/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:28/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về