Bản án 135/2020/HS-ST ngày 13/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 9 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 135/2020/HS-ST NGÀY 13/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 134/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 161/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 255/2020/HSST-QĐ ngày 29 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị M, sinh năm 1954 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Không xác định; Nơi cư trú: Thành phố hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hoá (học vấn): 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Thuận B (chết) và bà Nguyễn Thị L (chết); Chưa có chồng con; Tiền án: không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 15/3/1976, bị Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh bắt về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9 tiến hành xác minh tại Công an Quận 1, kết quả: Không còn lưu giữ; Ngày 05/8/1977, bị Công an Thành phố Hồ Chí Minh bắt về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9 tiến hành xác minh tại Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết quả: Không còn lưu giữ; Ngày 31/5/1991, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 14 năm tù về tội “Giết người” bị cáo Mai chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/9/1999. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9 tiến hành xác minh tại Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, kết quả: không tìm thấy dữ liệu lưu trữ bản án; Ngày 26/11/2000, bị Công an Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh bắt về hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9 tiến hành xác minh tại Công an Quận 4, Viện kiểm sát nhân dân Quận 4, Tòa án nhân dân Quận 4 và Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, kết quả: không tìm thấy dữ liệu lưu trữ bản án. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 23/6/2020 và có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Trần Nguyễn Quang T, sinh năm 1990 (vắng mặt) Địa chỉ: Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bà Hoàng Thị Th, sinh năm 1961 (có mặt) Địa chỉ: Thành phố Hồ Chí Minh.

Người chứng kiến:

1. Anh Lê Trần Ph, sinh năm 1996 (vắng mặt) Địa chỉ: Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Anh Nguyễn Ngọc Hoài N, sinh năm 2000 (vắng mặt) Địa chỉ: Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 09 giờ 00 phút ngày 23/6/2020, do cần mua ma túy để sử dụng và được một số bạn ngoài xã hội giới thiệu, nên Nguyễn Thị M một mình điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha, loại Mio Ultimo, màu nâu vàng xám bạc, biển số 59B1 – 297.21 từ nhà trọ của mình tại địa chỉ số 3/15, Đường 970, Tổ 7, Khu phố 4, phường Phú Hữu, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh đến Ngã ba Tân Lập, phường Bình Trưng Đông, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh để tìm mua ma túy. Tại đây, M gặp một người phụ nữ (không rõ lai lịch) mua một gói ma túy với giá 500.000 đồng và cất giấu gói ma túy vào túi áo trước bên trái đang mặc rồi điều khiển xe về lại Quận 9. Đến khoảng 11 giờ 50 phút cùng ngày, khi M điều khiển xe đến khu vực Vòng xoay Phú Hữu, đường Võ Chí Công, Khu phố 2, phường Phú Hữu, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 9 nghi vấn, kiểm tra, phát hiện bắt quả tang và đưa về trụ sở làm việc.

Căn cứ Kết luận giám định số 1068/KLGĐ-H ngày 01/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, thì tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Thị M và hình dấu của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6054 gram, loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9, Nguyễn Thị M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Vật chứng vụ án:

01 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Thị M, Giám định viên và Cán bộ Công an Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh, có khối lượng còn lại sau giám định là 0,4735 gram, loại Methamphetamine.

01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Mio Ultimo, màu nâu vàng xám bạc, biển số 59B1 – 297.21, số khung Y – 025987, số máy 23B3 – 025984.

Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9 đang tạm giữ số vật chứng trên theo Lệnh nhập kho vật chứng số 90/20 ngày 18/8/2020.

Qua xác minh, Xe mô tô nêu trên do anh Lê Thanh Q đứng tên chủ sở hữu. Ngày 05/02/2018, anh Q làm hợp đồng ủy quyền cho, thuê, bán, tặng xe cho anh Trần Nguyễn Quang T. Ngày 27/6/2019, anh T bán xe cho chị Hoàng Thị Th có làm giấy mua bán xe. Mai là chị dâu Th ở chung nhà, khoảng 08 giờ 30 phút ngày 23/6/2020, M hỏi mượn xe chị Th để đi công việc riêng, việc M dùng xe trên đi mua ma túy để sử dụng chị Th không biết, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở xử lý hình sự đối với Th.

Cáo trạng số: 127/CT-VKSQ9 ngày 01 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Nguyễn Thị M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh giữ quyền công tố luận tội và tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Thị M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M từ 02 năm tù đến 02 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 01 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Thị M, Giám định viên và Cán bộ Công an Quận 9, có khối lượng còn lại sau giám định là 0,4735 gram, loại Methamphetamine; trả lại 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Mio Ultimo, màu nâu vàng xám bạc, biển số 59B1 – 297.21, số khung Y – 025987, số máy 23B3 – 025984 cho chị Hoàng Thị Th.

Bị cáo Nguyễn Thị M nhận thấy được hành vi của mình là sai trái, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm về đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 9, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Nguyễn Thị M tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các chứng cứ, tang vật khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở xác định: Khoảng 11 giờ 50 phút ngày 23/6/2020, tại khu vực vòng xoay Phú Hữu, đường Võ Chí Công, Khu phố 2, phường Phú Hữu, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Thị M đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6054 gram, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Vì vậy, hành vi của Nguyễn Thị M đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Viện Kiểm sát nhân dân Quận 9 truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý đối với chất ma túy, để thỏa mãn cơn nghiện của bản thân làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người sử dụng cũng như là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai trái nhưng vẫn cố tình thực hiện, khối lượng tàng trữ trái phép chất ma túy là 0,6054 gram, loại Methamphetamine, bị cáo có nhân thân xấu. Vì vậy, cần áp dụng một hình phạt nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nh m giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xét trong suốt quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[4] Đối với người phụ nữ (không rõ lai lịch) đã bán ma túy cho Nguyễn Thị M do không xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9 không có căn cứ truy tìm để xử lý theo pháp luật là có căn cứ.

[5] Về xử lý vật chứng:

[5.1] 01 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Thị M, Giám định viên và Cán bộ Công an Quận 9, có khối lượng còn lại sau giám định là 0,4735 gram, loại Methamphetamine, đây là chất ma tuý mà Nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[5.2] Đối với xe mô tô hiệu Yamaha, loại Mio Ultimo, màu nâu vàng xám bạc, biển số 59B1 – 297.21, số khung Y – 025987, số máy 23B3 – 025984. Qua xác minh, xe do anh Lê Thanh Q đứng tên chủ sở hữu. Ngày 05/02/2018, anh Q làm hợp đồng ủy quyền cho, thuê, bán, tặng xe cho anh Trần Nguyễn Quang T. Ngày 27/6/2019, anh T bán xe cho chị Hoàng Thị Th có làm giấy mua bán xe. Bị cáo M là chị dâu Th ở chung nhà, sáng ngày 23/6/2020, M hỏi mượn xe để đi công chuyện. Chị Th không biết việc M sử dụng xe để đi mua ma túy về sử dụng, nên trả lại xe trên cho chị Th theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/6/2020.

2. Căn cứ khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Thị M, Giám định viên và Cán bộ Công an Quận 9, có khối lượng còn lại sau giám định là 0,4735 gram, loại Methamphetamine;

Trả lại cho chị Hoàng Thị Th 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha, loại Mio Ultimo, màu nâu vàng xám bạc, biển số 59B1 – 297.21, số khung Y – 025987, số máy 23B3 – 025984.

(theo Lệnh nhập kho vật chứng số 90/20 ngày 18/8/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh).

3. Căn cứ vào Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thị M phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Căn cứ vào Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo, bà Hoàng Thị Th được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 135/2020/HS-ST ngày 13/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:135/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 9 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về