Bản án 135/2019/HSST ngày 03/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 135/2019/HSST NGÀY 03/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 134/2019/TLST-HS ngày ngày 12 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 134/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đ, sinh năm 1983 tại tỉnh Nam Định, nơi cư trú: số A khu lao động đường H phường Q, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: lớp 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Đình Đ và bà: Trần Thị T; chưa có vợ, con; tiền án: ngày 13-4-2010 Tòa án nhân dân huyện Thuận An tỉnh Bình Dương xử phạt 07 năm 06 tháng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; ngày 16-5-2017 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 27 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tiền sự: không; nhân thân: ngày 24-4-2000 Tòa án nhân dân thị xã Ninh Bình tỉnh Ninh Bình xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân”; ngày 11-4-2002 Tòa án nhân dân thị xã Ninh Bình tỉnh Ninh Bình xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 24-11-2004 Tòa án nhân dân thị xã Ninh Bình tỉnh Ninh Bình xử phạt 42 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đều đã được xóa án tích); bị bắt, tạm giữ ngày 04-01-2019, chuyển tạm giam ngày 13-01-2019; có mặt.

Người làm chứng: Anh Trần Văn T, ông Nguyễn Ngọc P (không triệu tập tham gia phiên tòa); vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 50 phút ngày 04-01-2019, tổ công tác Công an phường Bà Triệu thành phố Nam Định kiểm tra hành chính đối với Đ đang ngồi trên xe máy biển kiểm soát C tại khu vực cổng chợ R đường P, phường B, thành phố N. Khi bị kiểm tra Đ thả từ trong lòng bàn tay trái xuống đất 01 gói nhỏ gói bằng ni lông màu trắng trong suốt. Tổ công tác đã phát hiện, thu giữ, tiến hành kiểm tra bên trong gói ni lông là các hạt tinh thể màu trắng, Đ khai là ma túy đá. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, đưa Đ cùng người làm chứng về trụ sở Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật, ngoài ra còn tạm giữ của Đ chiếc xe máy Jupiter biển kiểm soát C, một điện thoại di động Samsung màu trắng.

Bản Kết luận giám định số 29/GĐKTHS ngày 09-01-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất rắn dạng tinh thể màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Methamphetamine, khối lượng: 0,383 (không phẩy ba trăm tám mươi ba) gam.

Tại cơ quan điều tra, Đ khai nguồn gốc gói ma túy như sau: Khoảng 8 giờ ngày 04-01-2019, Đ điều khiển xe máy biển kiểm soát C một mình từ nhà đến trung tâm Methadol đường T, thành phố N để xin thuốc ARV. Tại đây Đ gặp Q không rõ địa chỉ là bạn xã hội rủ Đ đi đến khu vực nhà thờ L mua ma túy về cùng sử dụng. Đ đồng ý và điều khiển xe máy chở Q đến khu vực nhà thờ Lớn. Đ đứng đợi còn Q đi mua ma túy khoảng 30 phút về chỗ Đ. Q bảo Đ chở ra khu vực chợ R đường P phường B thành phố N để Q vào chợ gặp cô Q xin tiền. Đến nơi Q xuống xe rồi đưa cho Đ 01 gói ma túy gói trong túi ni lông màu trắng bảo Đ đợi khi nào Q ra cả hai cùng sử dụng ma túy. Đ cầm túi ma túy trong tay trái đứng chờ Q đi vào trong chợ. Khi Q đi được một lúc thì Đ bị tổ công tác phát hiện, bắt giữ.

Bản Cáo trạng số 136/CT-VKSTPNĐ ngày 11 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà, bị cáo Đ khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân như bản Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: tịch thu, tiêu hủy số ma túy, trả lại bị cáo chiếc điện thoại và chiếc xe máy nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đ không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Khoảng 09 giờ 50 phút ngày 04-01-2019, bị cáo Đ bị Công an phường Bà Triệu thành phố Nam Định bắt quả tang cầm trong tay 01 gói chứa tinh thể dạng rắn màu trắng. Bản Kết luận giám định số 29/GĐKTHS ngày 09-01-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng thu giữ của bị cáo là ma túy, loại ma túy: Methamphetamine, khối lượng: 0,383 (không phẩy ba trăm tám mươi ba) gam. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích sử dụng cho bản thân, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý, bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) với tình tiết định khung “tái phạm nguy hiểm” quy định điểm o khoản 2 của Điều luật. Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định là có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, góp phần làm gia tăng tệ nạn ma túy và tội phạm. Bị cáo có nhân thân xấu, đã ba lần bị kết án về tội ma túy, đã được xóa án tích. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Số ma túy sau khi giám định hoàn lại là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy. Chiếc xe máy biển kiểm soát C và một điện thoại Samsung màu trắng là tài sản của bị cáo, không phải là công cụ, phương tiện phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

[6] Đối với người đàn ông tên Q đưa ma túy cho bị cáo, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố: Bị cáo Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Đ 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 04-01- 2019.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 29/GĐKTHS; trả lại bị cáo chiếc xe máy biển kiểm soát C và một điện thoại di động Samsung nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án (chi tiết vật chứng ghi trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 04-04-2019).

3. Án phí: Bị cáo Đ phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 135/2019/HSST ngày 03/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:135/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về