Bản án 134/2020/HS-PT ngày 08/09/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 134/2020/HS-PT NGÀY 08/09/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 08 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm C khai vụ án Hình sự thụ lý số 107/2020/TLPT- HS ngày 03 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/2020/QĐXXPT- HS ngày 20 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trương Viết C H; sinh ngày 16/02/1990; nơi sinh: Xã Phú Phong, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Tổ dân phố 4, thị trấn H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Trương Viết T và bà Lê Thị Mộng L; có vợ là Nguyễn Thị D sinh 1988 và 02 con, đứa lớn 09 tuổi, đứa nhỏ 07 tuổi; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 10/01/2008 bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo Bản án số 01/2008/HSST (Đã được xóa án tích) và ngày 02/11/2016, bị C an huyện H xử phạt hành chính số tiền 500.000đ về hành vi gây rối trật tự C cộng theo Quyết định số 8173/QĐ-XPVPHC (Nộp tiền phạt ngày 14/02/2017); bị bắt ngày 23/10/2019 theo biên bản bắt người đang bị truy nã, tạm giam từ ngày 24/10/2019 đến nay tại Trại tạm giam C an Hà Tĩnh; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Võ Văn T, sinh năm: 1994; địa chỉ: Tổ dân phố 01, thị trấn H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1983; địa chỉ: Tổ dân phố 12, thị trấn H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

+ Chị Phạm Thị H, sinh năm: 1995; địa chỉ: Tổ dân phố 1, thị trấn H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

+ Chị Nguyễn Thị D, sinh năm: 1998; Địa chỉ: Tổ dân phố 4, thị trấn H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.

+ Ông Nguyễn Hồng C, sinh năm: 1966; Địa chỉ: Xóm 1, xã Hương Giang, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Lê Xuân V, sinh năm 1980; địa chỉ: Tổ dân phố 19, thị trấn H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Giang S, sinh năm 1987; địa chỉ: Tổ dân phố 7, thị trấn H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1990; địa chỉ: Tổ dân phố 11, thị trấn H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Tiến H, sinh năm 1987; Anh Trần Văn Vỹ, sinh năm 1979; Anh Hồ Đình P, sinh năm 1988; đều có địa chỉ tại: Tổ dân phố 9, thị trấn H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; đều vắng mặt.

+ Anh Hán Vĩnh T, sinh năm 1986; Chị Lê Thị Bạch Liên, sinh năm 1975; đều địa chỉ: Tổ dân phố 8, thị trấn H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

+ Anh Trần Mạnh H, sinh năm 1985; địa chỉ: Xóm 5, xã Gia Phố, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

+ Chị Lê Thị Hoài T, sinh năm 1990; địa chỉ: Tổ dân phố 3, thị trấn H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

+ Anh Trương Văn C, sinh năm 1986; địa chỉ: Xóm 1, xã Hương Giang, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1989; anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1988; đều địa chỉ: Xóm 2, xã Hương Giang, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; đều vắng mặt.

+ Anh Trần Anh Đ, sinh năm 1987; địa chỉ: Thôn Đông Trà, xã Hương Trà, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Đức Đ, sinh năm 1977; Địa chỉ: Xóm 04, xã Phú Phong, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

+ Anh Phan Trọng T, sinh năm 1988; địa chỉ: Tổ dân phố 1, thị trấn H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Viết H, sinh năm 1974; địa chỉ: Tổ dân phố 4, thị trấn H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

+ Anh Lưu Hải H, sinh năm 1973; địa chỉ; Thôn Phú Thành, xã Phú Gia, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Tiến P, sinh năm 1987; chị Đỗ Trúc Đ, sinh năm 1993; đều địa chỉ: Khu phố 5, phường 3, thành phố Đ, tỉnh Q; đều vắng mặt.

- Điều tra viên, Cán bộ điều tra tham gia phiên tòa: Ông Phan Quốc H - Điều tra viên; Ông Phan Thanh H - Cán bộ điều tra thuộc Cơ quan CSĐT C an huyện H; vắng mặt.

Bị cáo không kháng cáo: Nguyễn Văn K.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có mâu thuẫn từ trước, khoảng 18 giờ 30 phút ngày 30/01/2019 Trương Viết C H điều khiển xe mô tô nhãn liệu Lead, BKS 38B1-118.50 đến quán Bi a Galaxy Club của anh Nguyễn Tiến H ở tổ dân phố 9, thị trấn H tìm anh Võ Văn T để giải quyết mâu thuẫn nhưng không thấy. Tại đây, H gặp Nguyễn Văn K, Nguyễn Văn N, Nguyễn Văn Đ, Trương Văn C, Nguyễn Văn Qg đều trú tại xã H đang chơi Bi a nên H rủ K, N, Đ, C và Q đến quán bia N Việt của anh Trần Trọng N ở tổ dân phố 3, thị trấn H để uống bia. Đến khoảng 19 giờ 30 phút thì N, Đ, C và Q đi về trước, còn H và K tiếp tục ngồi lại. Khoảng 20 giờ 00 phút cùng ngày, H tiếp tục nảy sinh ý định tìm đánh anh T nên đã lấy 01 con dao tại quán đưa ra cất dấu trong cốp xe, rồi nhờ Nguyễn Văn K điều khiển xe mô tô của H chở đến quán Bi a Galaxy Club. Trên đường đi khi đến gần khu vực Trường THCS Chu Văn An thuộc tổ dân phố 8, thị trấn H thì H bảo K dừng xe lại, H xuống xe và mở cốp xe lấy con dao ra cầm trên tay rồi bảo K tiếp tục chở H đến quán Bi a Galaxy Club. Khoảng 20 giờ 13 phút khi đến nơi, K dừng xe mô tô trước quán đứng chờ, còn H cầm dao trên tay phải đi theo lối cửa phụ vào trong quán. Tại đây, H thấy anh T đang đứng xem mọi người trong quán chơi bi a, H chạy lại dùng dao chém 01 nhát trúng vào vùng vai phải, 01 nhát vào bàn tay trái của anh T, anh T bỏ chạy ra ngoài đường thì H đuổi theo. Khi anh T chạy được khoảng 40 mét thì bị ngã xuống đường, H chạy đến dùng dao chém tiếp 02 nhát vào cẳng chân trái của anh T. Sau đó, H quay lại phía quán Bi a nói với mọi người đưa anh T đi cấp cứu, rồi đi ra chỗ Nguyễn Văn K đang đứng chờ. K điều khiển xe mô tô chở H quay về quán của anh Trần Trọng N. K vào quán, H điều khiển xe mô tô về để ở nhà, rồi bắt xe tắc xi đi bỏ trốn khỏi địa phương. Đến ngày 23/10/2019 Trương Viết C H bị C an phường Trường Thọ, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh bắt giữ theo lệnh truy nã. Hậu quả anh Võ Văn T bị thương nặng được mọi người đưa đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh cấp cứu, rồi chuyển đến Bệnh viện Việt Đức Hà Nội điều trị từ 31/01/2019 đến ngày 08/02/2019 thì ra viện.

Tại Bản kết luận giám định pháp y số 16/TgT ngày 18/02/2019 của Trung tâm Pháp y Hà Tĩnh xác định thương tích của anh Võ Văn T:

- Vùng vai phải vết thương hình chữ (T) kích thước 12,5cm x 0,2cm và 6,5cm x 0,2cm, đang còn 10 mũi chỉ khâu;

- Vùng cổ tay và bàn tay trái: Vết thương dọc mặt trước cổ tay kích thước 4,5cm, đang còn 2 mũi chỉ khâu; vết thương từ cổ tay đến ô mô út kích thước 11cm, đang còn 3 mũi chỉ khâu. Gãy xương bàn 4,5 đã phẫu thuật. Hạn chế vận động khớp cổ tay trái;

- 1/3 trên ngoài cẳng chân trái vết thương hình zíc zắc kích thước 15cm, 10cm và 06cm, đang còn 12 mũi chỉ khâu. Tổn thương thần kinh hông khoeo ngoài trái, gãy đầu trên xương mác trái;

- Gãy đầu ngoài xương đòn phải, gãy mỏm cùng vai phải còn phương tiện kết hợp xương;

- Gãy xương bàn 4, bàn 5 bàn tay trái còn phương tiện kết hợp xương.

Căn cứ Bảng tỷ lệ tổn thương cơ thể ban hành kèm Thông tư 20/2014/TT- BYT ngày 12/6/2014 của Bộ Y tế, Kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của anh Võ Văn T là 50%. Thương tích do vật sắc tác động vào gây nên.

Vật chứng vụ án: Con dao bị cáo H dùng làm hung khí gây thương tích, trên đường bỏ trốn từ huyện H xuống thành phố Hà Tĩnh, H đã vứt dao không nhớ chính xác địa điểm, do đó Cơ quan điều tra không thu giữ được vật chứng.

01 Xe mô tô Lead, BKS 38B1-118.50 thu giữ của chị Nguyễn Thị D, Cơ quan điều tra đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện H bảo quản lý chờ xử lý.

-Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Võ Văn T có đơn yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại số tiền là 190.022.000đ. Trong giai đoạn điều tra bị cáo H đã tác động với gia đình bồi thường cho bị hại số tiền 30.000.000đ nhưng bị hại không nhận nên cơ quan điều tra đã chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện H quản lý. Tại phiên tòa sơ thẩm các bên đã thõa thuận đền bù trách nhiệm dân sự đầy đủ.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 14/HSST ngày 30/6/2020 Tòa án nhân dân huyện H đã căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án đã xử: Tuyên bố bị cáo Trương Viết C H phạm tội Cố ý gây thương tích. Xử phạt bị cáo Trương Viết C H 06 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/10/2019.

Ngoài ra, án còn tuyên án phí, biện pháp tư pháp và quyền kháng cáo.

Ngày 09 tháng 7 năm 2020, bị cáo Trương Viết C H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 08 tháng 7 năm 2020, người bị hại có đơn kháng cáo đề nghị xem xét lại hành vi dùng giao chém bị hại của bị cáo cấu thành tội “Giết người”, con giao bị cáo dùng chém bị hại là “dao mẹo” chứ không phải “dao canh” như bị cáo khai, đề nghị trả hồ sơ điều tra lại vật chứng. Về hành vi bị cáo sau khi chém bị hại có vẫy tay cho mọi người đưa bị hại đi cấp cứu là không đúng và mức án 6 năm tù cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là chưa tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo, người bị hại nguyên nội dung kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh tại phiên tòa sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá, phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xem xét các nội dung liên quan đến đơn kháng cáo của bị cáo và người bị hại, đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 BLTTHS 2015, xử không chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của bị cáo và người bị hại, đề nghị HĐXX giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo;

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trương Viết C H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình . Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo với lời khai của những người làm chứng, các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét C khai tại phiên tòa là phù hợp. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Do có mâu thuẫn từ trước với anh Võ Văn T, nên vào khoảng 20 giờ ngày 30/01/2019, sau khi uống bia tại quán N Việt, bị cáo Trương Viết C H chuẩn bị 01 con dao lấy tại quán bia, đem cất dấu ở cốp xe Lead BKS 38B1- 118.50 và nhờ Nguyễn Văn K điều khiển xe mô tô chở đến quán Bi a Galaxy Club tại tổ dân phố 09 thị trấn H để đánh anh T. Khi đến quán bi a thấy anh T đang đứng xem đánh bi a, H chạy đến dùng dao chém 01 nhát trúng vào vùng vai phải, 01 nhát vào bàn tay trái, anh T bỏ chạy ra ngoài đường thì H đuổi theo, khi anh T chạy bị ngã xuống đường, H chạy đến dùng dao chém tiếp 02 nhát vào cẳng chân trái anh T. Sau đó, H quay lại phía quán bi a nói người đưa T đi cấp cứu và K chở H bỏ trốn khỏi hiện trường vụ án. Hậu quả gây tổn hại sức khỏe cho anh Võ Văn T với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 50%.

Hành vi của bị cáo H thể hiện thái độ bất chấp coi thường pháp luật, coi thường sức khỏe của người khác nên thuộc trường hợp “Dùng hung khí nguy hiểm” và “Có tính chất côn đồ” quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134 BLHS. Bị cáo Trương Viết C H dùng dao chém 04 nhát trúng vào vai, tay, chân của bị hại (không trúng vào vùng trọng yếu trên cơ thể), mặc dù không ai căn ngăn nhưng bị cáo đã tự động chấm dứt hành vi; đồng thời, ngay sau khi gây thương tích bị cáo quay lại nói với mọi người đưa bị hại đi cấp cứu phù hợp với lời khai của bị cáo K và người làm chứng anh Trần Văn Vỹ (Bl 283) và phù hợp với hình ảnh trích xuất Camera có tại hồ sơ vụ án. Xét các yếu tố mặt khách quan, chủ quan của tội phạm, Hội đồng xét xử xét thấy hành vi trên của bị cáo cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” chứ không phạm tội “Giết người”. Do đó Bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự là đúng người đúng tội, không oan sai. Do đó, kháng cáo của người bị hại cho rằng bị cáo phạm tội “Giết người” và đề nghị trả hồ sơ điều tra bổ sung là không có cơ sở.

[3]. Xét bị cáo Trương Viết C H không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại đầy đủ cho bị hại và bị hại không có yêu cầu gì thêm nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Tự nguyên bồi thường thiệt hại” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều khai báo thành khẩn, thể hiện thái độ ăn năn, hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy vậy trong vụ án này bị cáo Trương Viết C H giữ vai trò khởi xướng, thực hành tích cực, trực tiếp dùng dao gây ra thương tích cho bị hại, sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo bỏ trốn gây khó khăn cho quá trình điều tra vụ án, về nhân thân bị cáo từng bị kết án về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” và xử phạt hành chính về hành vi gây rối trật tự C cộng. Cấp sơ thẩm đã căn cứ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra để xem xét cân nhắc mức hình phạt phù hợp, đúng quy định đối với bị cáo. Do đó kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và kháng cáo đề nghị tăng hình phạt của người bị hại là không có cơ sở chấp nhận.

[4]. Đối với kháng cáo của người bị hại đề nghị trả hồ sơ điều tra bổ sung để làm rõ đặc điểm, loại con dao mà bị cáo H sử dụng gây thương tích. Quá trình bỏ trốn bị cáo H đã vứt, Cơ quan điều tra không thu giữ được nên không xác định được chính xác đặc điểm, loại dao cụ thể mà bị hại yêu cầu. Cấp sơ thẩm đã căn cứ vào lời khai của các bị cáo, người làm chứng, kết luận giám định và hình ảnh trích xuất từ Camera để khẳng định, có đủ cơ sở xác định bị cáo H sử dụng loại dao sắc, nhọn làm hung khí gây thương tích cho bị hại là có căn cứ.

Các nội dung khác của án sơ thẩm không có kháng cáo và không bị kháng nghị có hiệu lực thi hành.

Về án phí HSPT: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của bị cáo Trương Viết C H và người bị hại anh Võ Văn T. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số14/HSST ngày 30/6/2020 Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.

Tuyên bố bị cáo Trương Viết C H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

1. Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trương Viết C H 06 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/10/2019.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình, khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Trương Viết C H phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

352
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 134/2020/HS-PT ngày 08/09/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:134/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về