Bản án 134/2019/HS-ST ngày 26/09/2019 về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 134/2019/HS-ST NGÀY 26/09/2019 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 130/2019/HSST ngày 26 tháng 7 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 130/2019/QĐXXST-HS ngày 12/9/2019 đối với các bị cáo:

1. Chiếng Cỏn S (Tên gọi khác: N), sinh ngày 16/9/1991 tại Đ; Nơi cư trú: Ấp T1, xã S1, huyện T2, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: làm rẫy; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Hoa; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Chiếng A Ư (chết) và con bà Phạm Thị K (chết); Chưa có vợ, con; Tiền án: Ngày 23/3/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 04/7/2016 tại cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh Đồng Nai (Chưa thực hiện nghĩa vụ đóng án phí); Tiền sự: Ngày 02/4/2015 bị Công an huyện Trảng Bom ra quyết định xử phạt hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (Chưa thực hiện nghĩa vụ nộp tiền phạt); Nhân thân: Ngày 25/8/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xử phạt 04 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/4/2019 đến nay. (Có mặt)

2. Đỗ Nhân Q, sinh ngày 21/4/1992 tại Đ; Nơi cư trú: Ấp H, xã H1, huyện T2, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: phụ hồ; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đỗ Văn Q, sinh năm 1952 và con bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1959; Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: không; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/4/2019 đến nay. (Có mặt)

3. Nguyễn Hoài P, sinh ngày 20/8/1987 tại Đ; Nơi cư trú: số 78 khu c, Ấp H, xã H1, huyện T2, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: phụ hồ; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn P, sinh năm 1956 và con bà Vũ Thị G, sinh năm 1961; Chưa có vợ, con; Tiền án: Ngày 18/01/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 18/01/2012 tại trại giam Xuân Lộc (Chưa nộp án phí); Tiền sự: Ngày 21/11/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom quyết định đưa đi cai nghiện bắt buộc 20 tháng tại Cơ sở điều trị cai nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai; Nhân thân: Ngày 29/02/2008 bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xử phạt 08 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” và ngày 08/11/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/4/2019 đến nay. (Có mặt)

- Người làm chứng: Anh Phan Văn V, sinh năm 1994.

Đa chỉ: Ấp T1, xã S1, huyện T2, tỉnh Đ. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiếng Cỏn S là đối tượng sử dụng ma túy từ năm 2010. S thường mua ma túy của đối tượng Võ Thị Lệ H ở khu vực ấp Nhân Hòa, xã Tây Hòa, huyện Trảng Bom để sử dụng và bán lại kiếm lời. Vào lúc 06 giờ ngày 05/4/2019, S mua của H 1.000.000 đồng ma túy loại Heroin. Sau đó S đem về nhà phân ra thành 20 tép, S sử dụng hết 02 tép, còn lại 18 tép S cất giấu trong túi quần. Khoảng 09 giờ ngày 05/4/2019, Đỗ Nhân Q và Nguyễn Hoài P gọi điện thoại từ số 0888.260.471 đến số 0373.223.064 của S hỏi mua 02 tép ma túy, S đồng ý và điều khiển xe mô tô Yamaha Ultimo biển số 60V1-9644 đến đoạn đường thuộc ấp Thuận Hòa, xã Sông Thao, huyện Trảng Bom bán cho Q và P 02 tép ma túy với giá 300.000 đồng. Số ma túy trên Q và P cùng nhau sử dụng hết. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, Q và P rủ nhau góp mỗi người 140.000 đồng để mua ma túy về sử dụng, Q gọi điện thoại cho S hỏi mua ma túy thì S đồng ý và hẹn đến khu vực ấp Thuận Hòa, xã Sông Thao, huyện Trảng Bom để mua bán ma túy, P điều khiển xe Dream (không rõ biển số) chở Q đến điểm hẹn gặp S mua 02 tép ma túy với giá 280.000 đồng thì bị Công an huyện Trảng Bom bắt quả tang cùng vật chứng. P điều khiển xe mô tô chạy thoát, đến ngày 11/4/2019 P đến Công an huyện Trảng Bom đầu thú. Vật chứng thu giữ: 02 đoạn ống nhựa hàn kín bên trong chứa chất bột màu trắng (ký hiệu M1) và 01 điện thoại di động Sam Sung số sim 0888.260.471 thu giữ của Q; 14 đoạn ống nhựa hàn kín bên trong chứa chất bột màu trắng (ký hiệu M2), 01 điện thoại di động Mobistar số sim 0373.223.064, 01 xe mô tô Yamaha Ultimo biển số 60V1-9644 và số tiền 700.000 đồng thu giữ của S.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trưng cầu giám định số ma túy nêu trên. Tại Bản kết luận giám định số 242/PC09-GĐMT ngày 11/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận:

+ Mẫu chất bột màu trắng (ký hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1007 gam loại Heroin.

+ Mẫu chất bột màu trắng (ký hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,8117 gam loại Heroin.

Đi với vật chứng: số tiền 120.000 đồng của bị cáo S không liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trả lại cho bị cáo.

Đi với đối tượng Võ Thị Lệ H là người bán ma túy cho S ở khu vực ấp Nhân Hòa, xã Tây Hòa, huyện Trảng Bom. Hiện nay H không có mặt tại địa phương nên chưa làm việc được, Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bom tách ra tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 149/CT/VKS-HS ngày 25 tháng 7 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom truy tố bị cáo Chiếng Cỏn S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; Các bị cáo Đỗ Nhân Q và Nguyễn Hoài P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

1. Về hình phạt:

- Bị cáo Chiếng Cỏn S từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù.

- Bị cáo Đỗ Nhân Q từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

- Bị cáo Nguyễn Hoài P từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù.

2. Về vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy ma túy còn lại sau giám định. Tịch thu xung công 02 điện thoại di động, 01 xe mô tô Yamaha Ultimo biển số 60V1-9644 và số tiền 580.000đồng.

3. Về án phí: Buộc mỗi bị cáo chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội nêu trên, lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai người làm chứng. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 11 giờ 45 phút ngày 05/4/2019, tại ấp Thuận Hòa, xã Sông Thao, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, bắt quả tang bị cáo Chiếng Cỏn S bán trái phép 0,1007 gam Heroin giá 280.000đồng cho bị cáo Đỗ Nhân Q và Nguyễn Hoài P, nhằm mục đích để bị cáo Q và P sử dụng, kiểm tra người bị cáo S thu giữ thêm 0,8117 gam Heroin, ngoài ra còn thu giữ thêm 01 điện thoại di động Mobista màu trắng, số sim 0373.223.064, 01 xe mô tô Yamaha Ultimo biển số 60V1-9644 và số tiền 700.000 đồng của S, 01 điện thoại di động Sam sung màu tím, số sim 0888.260.471 của Q. Trước đó, khỏang 9 giờ ngày 05/4/2019 bị cáo S đã bán trái phép 02 tép Heroin với giá 300.000 đồng cho bị cáo Q và P sử dụng. Vì vậy, hành vi của bị cáo Chiếng Cỏn S đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; Hành vi của các bị cáo Đỗ Nhân Q và Nguyễn Hoài P đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[2] Xét tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo thì thấy: Hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; Vì ma túy là loại độc dược gây nghiện nên Nhà nước độc quyền quản lý, Nhà nước nghiêm cấm các hoạt động mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo Q và P phạm tội mang tính đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo Q là người rủ bị cáo P phạm tội và trực tiếp giao dịch mua bán ma túy với bị cáo S, bị cáo Q còn giao xe mô tô cho P điều khiển nên bị cáo Q có vai trò cao hơn bị cáo P.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo S và P là người có nhân thân xấu, hiện các bị cáo chưa được xóa tiền sự và chưa được xóa án tích về tội “Trộm cắp tài sản” mà còn tiếp tục phạm tội do cố ý là thuộc trường hợp tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Riêng bị cáo Q chưa có tiền án, tiền sự. Song các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Riêng bị cáo P ra đầu thú nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về xử lý vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chứa ma túy sau giám định số 242/PC09-GĐMT ngày 12/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai; Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 02 điện thoại di động đã qua sử dụng hiện không hoạt động, 01 xe mô tô Yamaha Ultimo biển số 60V1- 9644 và số tiền 580.000đồng các bị cáo sử dụng làm công cụ, phương tiện phạm tội theo điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[5] Về án phí: Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[6] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử là phù hợp với quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

1.1 Tuyên bố bị cáo Chiếng Cỏn S (Tên gọi khác: N) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1.2 Xử phạt bị cáo Chiếng Cỏn S (Tên gọi khác: N) 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/4/2019.

2. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

2.1 Tuyên bố bị cáo Đỗ Nhân Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2.2 Xử phạt bị cáo Đỗ Nhân Q 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/4/2019.

3. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

3.1 Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoài P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

3.2 Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoài P 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/4/2019.

4. Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau khi giám định được đựng trong 01 phong bì niêm phong số số 242/PC09-GĐMT ngày 12/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai; Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 02 điện thoại di động đã qua sử dụng hiện không hoạt động, 01 xe mô tô Yamaha Ultimo biển số 60V1-9644 (Hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trảng Bom, theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 02/8/2019); Đồng thời tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 580.000đồng (năm trăm tám mươi nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 01597 ngày 12/8/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trảng Bom.

5. Căn cứ vào điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Các Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 134/2019/HS-ST ngày 26/09/2019 về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy 

Số hiệu:134/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về