Bản án 133/2021/HNGĐ-ST ngày 13/05/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HOÀ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 133/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/05/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 13 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hoà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 2745/2021/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 122/2021/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thành T, sinh năm 1979 Địa chỉ: Ấp 3, P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Bà Đồng Thị H, sinh năm 1977.

Địa chỉ: 2B1, KP.4, phường N, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. (Ông T, bà H có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 10 tháng 10 năm 2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Thành T trình bày:

Ông và bà H kết hôn vào năm 2005 trên cơ sở tự nguyện, có Giấy chứng nhận kết hôn số 174/TN ngày 22/11/2005 do Ủy ban nhân dân phường N, thành phố B, tỉnh Đồng Nai cấp. Quá trình vợ chồng chung sống, thời gian đầu bình thường, sau đó vợ chồng có những rạn nứt, mâu thuẫn về tình cảm dẫn đến ly thân từ năm 2017 đến nay. Hiện nay, vợ chồng không còn hạnh phúc, mâu thuẫn không thể hàn gắn được nên ông xin được ly hôn với bà H để giải phóng cho nhau và yên ổn làm việc, chăm lo cho con chung.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Thanh C, sinh ngày 28/6/2009. Ly hôn, ông đề nghị Tòa án giao con chung cho bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng do hai bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Tại bản tự khai ngày 01/02/2021, bị đơn bà Đồng Thị H trình bày:

Bà và ông T kết hôn vào năm 2005 trên cơ sở tự nguyện, có Giấy chứng nhận kết hôn số 174/TN ngày 22/11/2005 do Ủy ban nhân dân phường N, thành phố B, tỉnh Đồng Nai cấp. Quá trình vợ chồng chung sống, thời gian đầu bình thường, sau đó vợ chồng có những rạn nứt, mâu thuẫn về tình cảm không thể hàn gắn được nên bà và ông T xin được ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Thanh C, sinh ngày 28/6/2009. Ly hôn, bà đề nghị Tòa án giao con chung cho bà trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng do hai bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Ông Nguyễn Thành T xin ly hôn bà Đồng Thị H, bà H là bị đơn cư trú tại thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B.

Nguyên đơn ông Nguyễn Thành T và bị đơn bà Đồng Thị H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập đương sự. Cả ông T và bà H đều có đơn xin vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các đương sự theo quy định pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông T, bà H đăng ký kết hôn vào ngày 22/11/2005 trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân phường N, thành phố B, tỉnh Đồng Nai cấp chứng nhận đăng ký kết hôn số 174/TN nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp theo Điều 9, 11 Luật hôn nhân gia đình năm 2000.

Về tình cảm, ông T xin ly hôn bà H với lý do vợ chồng đã ly thân từ năm 2017 đến nay, mâu thuẫn hiện đã rất trầm trọng không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt nên ông xin được ly hôn với bà Hoa để giải phóng cho nhau và yên ổn làm việc, chăm lo cho con chung.

Bị đơn bà Đồng Thị H cũng thống nhất với lời trình bày của ông T về hôn nhân và mâu thuẫn vợ chồng, bà đồng ý ly hôn ông Nguyễn Thành T.

Xét thấy, tình trạng mâu thuẫn của vợ chồng ông T, bà H là có thật và hiện đã rất trầm trọng, vợ chồng đã ly thân thời gian dài từ năm 2017 đến nay, không còn quan tâm đến nhau, nếu tiếp tục kéo dài tình trạng hôn nhân như hiện nay cũng không mang lại kết quả tốt đẹp mà chỉ càng làm cho cuộc sống của cả hai thêm mệt mỏi. Ông T xin ly hôn, bà Hoa đồng ý, cả hai đều có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải và đề nghị vắng mặt tại các phiên họp công khai chứng cứ, hòa giải và phiên tòa xét xử vụ án chứng tỏ cả ông T và bà H đều không muốn hàn gắn đoàn tụ. Căn cứ Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận đơn xin ly hôn của ông Tuấn, cho ông T được ly hôn với bà H để hai người ổn định cuộc sống, tiếp tục chăm lo cho con chung.

[3] Về con chung: Ông T, bà H có 01 con chung tên Nguyễn Thanh C, sinh ngày 28/6/2009. Ly hôn, ông T đề nghị Tòa án giao con chung cho bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng do hai bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại Bản tự khai ngày 01/02/2021, bà H cũng đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu C, việc cấp dưỡng do hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Cháu Nguyễn Thanh C trên 07 tuổi và có nguyện vọng được ở với mẹ là bà Đồng Thị H. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu của ông T, giao cháu C cho bà H tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp với quy định pháp luật. Do bà H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên tạm thời ông T không cấp dưỡng nuôi con chung. Ông T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của trẻ khi cần thiết các bên được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng khai không có nên không xem xét.

[5] Về án phí: Ông Nguyễn Thành T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 9, 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Nguyễn Thành T, xử cho ông Nguyễn Thành T được ly hôn bà Đồng Thị H.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thanh C, sinh ngày 28/6/2009 cho bà Đồng Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi con trưởng thành và có khả năng lao động. Tạm thời ông Nguyễn Thành T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông T không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của trẻ khi cần thiết các bên được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại Điều 84, 110, 118 Luật hôn nhân gia đình.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Ông Nguyễn Thành T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0007804 ngày 18/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hoà. Ông T đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 133/2021/HNGĐ-ST ngày 13/05/2021 về ly hôn

Số hiệu:133/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về