TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH -TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 133/2020/HSST NGÀY 11/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 11 tháng 5 năm 2020; tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 103/2020/HSST ngày 17 tháng 3 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 217/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Thế A; Tên gọi khác: không; Sinh ngày: 05 tháng 12 năm 1994; Nơi đăng ký thường trú: tổ 6, phường T, thành phố H, tỉnh H; Nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Hữu H, sinh năm: 1959 và bà Võ Thị Nh, sinh năm 1963; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: không; bị bắt tạm giữ từ ngày 22/02/2020 đến nay, có mặt tại phiên toà.
Bị hại: Anh Nguyễn Hữu Thành Đ, sinh ngày: 02/07/2002; trú tại: khối 4, phường Đội Cung, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An - vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Nguyễn Hữu Th; sinh năm: 1977; trú tại: khối 4, phường Đội Cung, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An - vắng mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị H; sinh năm: 1980; trú tại: khối 4, phường Đội Cung, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An – vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 21/02/2020, bị cáo Nguyễn Thế A đi lang thang đến khu vực tầng hầm chợ Vinh thuộc phường H, thành phố V, tỉnh Ng. Tại đây, Thế A nhìn thấy một chiếc xe máy điện nhãn hiệu Nisaki màu đen, đã qua sử dụng, biển kiểm soát MĐ-117.95 của anh Nguyễn Hữu Thành Đ không có người trông giữ. Lúc này, bị cáo liền nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe máy điện và đi đến dắt chiếc xe máy điện đưa đến khu vực công trường gần ngã tư chợ V để cất dấu và tìm nơi tiêu thụ. Đến 21 giờ cùng ngày, bị cáo dắt chiếc xe đến công viên Nguyễn Tất Thành thuộc phường Trường Thi, thành phố Vinh để cất dấu rồi ngủ qua đêm tại đây. Đến khoảng 9 giờ, ngày 22/02/2020 bị cáo dắt xe trộm cắp được đi cắt chìa khóa, khi đi đến khu vực chợ Đại học Vinh thuộc khối 11, phường B, thành phố V, tỉnh N thì bị tổ công tác Công an phường B, thành phố V kiểm tra hành chính và yêu cầu bị cáo về trụ sở Công an phường để làm việc. Tại đây bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình và giao nộp lại tài sản.
Tại kết luận định giá tài sản số 18/KL-ĐGTS ngày 25/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản UBND thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An kết luận: Chiếc xe máy điện nhãn hiệu Nisaki màu đen, biển kiểm soát 37Đ2-117.95 đã qua sử dụng có trị giá 4.500.000 đồng (bốn triệu, năm trăm nghìn đồng).
Về dân sự: Bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, quá trình điều tra đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về phần dân sự.
Tại Bản cáo trạng số 143/CT-VKS ngày 17/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh đã truy tố Nguyễn Thế A về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thế A từ 3 đến 5 tháng tù.
Về dân sự: Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu gì về phần dân sự, nên miễn xét.
Tại phiên tòa bị cáo nhận tội và không tranh luận gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Xét tính hợp pháp đối với các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Xét hành vi phạm tội: Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Thế A khai nhận: Vào hồi 16 giờ 30 phút, ngày 21/02/2020 tại tầng hầm chợ V thuộc phường H, thành phố V, tỉnh N, Nguyễn Thế A có hành vi lén lút trộm cắp một chiếc xe máy điện nhãn hiệu Nisaki màu đen, biển kiểm soát 37Đ2-117.95 đã qua sử dụng có trị giá 4.500.000 đồng (bốn triệu, năm trăm nghìn đồng). Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, đơn trình báo, lời khai của bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; Kết luận định giá và các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa.
Vì vậy, có đầy đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi của bị cáo Nguyễn Thế A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết.
[2.2]. Xét tính chất vụ án và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì lười lao động nhưng muốn có tiền tiêu xài nên vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần phải xét xử nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ để giáo dục riêng cũng như phòng ngừa chung. Tuy nhiên cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt vì bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn tỏ ra ăn năn hối cải; đã tự nguyện giao nộp lại tài sản để khắc phụ hậu quả; sau khi phạm tội đã đầu thú quy định tại điểm b, i, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần áp dụng Điều 54 BLHS xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.
[2.3]. Về hình phạt bổ sung: Đối với loại tội này ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét thấy bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng sống lang thang nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.
[2.4]. Về phần dân sự: Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, nhưng quá trình điều tra cơ quan điều tra đã trả lại tài sản và không có yêu cầu gì nên miễn xét.
[2.5]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế A 4 (bốn) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 22/01/2020.
Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Nguyễn Thế A phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người đại diện hợp pháp cho người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.
Bản án 133/2020/HSST ngày 11/05/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 133/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về