Bản án 133/2020/HS-ST ngày 10/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 133/2020/HS-ST NGÀY 10/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 10 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 128/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa ra xét xử số 125/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2020, đối với bị cáo:

Lường Văn T, sinh năm 1990; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Bản B, xã Ă, huyện M, tỉnh Đ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Lường Văn C (đã chết); họ tên mẹ: Quàng Thị B; gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ hai; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 20/5/2020, tạm giữ từ ngày 21/5/2020 đến ngày 30/5/2020 chuyển tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo là: Bà Hồ Thúy Sen – Trợ giúp viên pháp lý, T tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22 giờ 45 Pt ngày 20/5/2020, tổ công tác Y20/141 Công an thành phố Hà Nội phối hợp cùng Công an xã Yên Thường, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát tại khu vực Dốc Lã, xã Yên Thường, huyện Gia Lâm, Hà Nội thì phát hiện Nguyễn Đình P, sinh năm 1963; trú tại: Tổ X, phường V, quận L, thành phố H điều kiển xe máy BKS: 29R7-7304 chở phía sau Lường Văn T có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu dừng xe để kiểm tra, quá trình kiểm tra, phát hiện T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã thu giữ vật chứng và đưa các đối tượng về trụ sở Công an xã Yên Thường để làm việc.

Vật chứng thu giữ của Lường Văn T, gồm:

- 02 gói giấy bên trong có 01 gói giấy màu trắng và 01 gói giấy màu vàng bên trong đều có chứa chất bột màu trắng:

- 01 điện thoại Nokia màu đen, đã qua sử dụng, bên trong có lắp sim số 0852412306.

Ngoài ra còn thu giữ của Nguyễn Đình P: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave α màu xanh, BKS: 29R7-7304; số máy: 0066928; số khung: 066917 và 01 đăng ký xe mô tô BKS: 29R7-7304 mang tên Phan Anh Dũng.

Tại Kết luận giám định số 4068/KLGĐ-PC09 ngày 28/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy màu trắng và 01 gói giấy màu vàng đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 0,242 gam.

Tại cơ quan điều tra, Lường Văn T khai nhận: Bản thân T là đối tượng nghiện chất ma túy. Khoảng 20 giờ ngày 20/5/2020 T thuê xe ôm của anh Nguyễn Đình P lên Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh với giá 100.000 đồng mục đích đi mua ma túy để sử dụng nhưng T không nói cho P biết, anh P đồng ý. Khi đi đến Từ Sơn, Bắc Ninh, anh P chở T đi đến một ngõ nhỏ ven đường, T B anh P đứng đợi còn T đi bộ vào trong ngõ để tìm mua ma túy. T đi đến trước một ngôi nhà có cửa cuốn đang đóng, phía dưới chân cửa còn hở một khe nhỏ cách nền nhà khoảng 02 cm hỏi mua ma túy. T đưa vào phía bên trong số tiền 340.000 đồng qua khe hở dưới cửa cuốn thì người phụ nữ phía trong nhà cầm tiền và đưa ra cho T 02 gói giấy (gồm 01 gói giấy màu trắng và 01 gói màu vàng). T cầm hai gói ma túy vừa mua được ở trong lòng bàn tay phải của T sau đó đi bộ ra chỗ P đứng đợi và B P chở T về. Khi P điều khiển xe máy chở T đi đến khu vực Dốc Lã, Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội thì bị Cơ quan công an yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình lực lượng công an yêu cầu dừng xe thì T đã thả 02 gói giấy chứa ma túy từ tay phải xuống dưới mặt đường, cách vị trí dừng xe khoảng 02m thì bị Cơ quan công an phát hiện và yêu cầu quay lại, nhặt lên giao nộp để kiểm tra, T đã tự nhặt 02 gói giấy lên và giao nộp cho lực lượng công an. Khi mở kiểm tra thì bên trong 02 gói giấy đều có chứa chất bột màu trắng. T khai nhận đây là 02 gói ma túy loại Heroin của T vừa mua được ở Từ Sơn, Bắc Ninh. Sau đó Cơ quan công an đưa T và P cùng vật chứng về trụ sở công an xã Yên Thường để làm rõ.

Đối với đối tượng bán ma túy cho T, do không xác định được nhân thân, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xác minh, xử lý.

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave α màu xanh, BKS: 29R7- 7304; số máy: 0066928; số khung: 066917, qua xác minh thuộc sở hữu của anh Nguyễn Đăng T, sinh năm 1975; trú tại: Tổ Y, phường Đ, quận L, thành phố H; năm 2019 anh T đã bán chiếc xe máy trên cho anh Nguyễn Đình P. Ngày 20/5/2020, anh P làm xe ôm chở T đi nhưng không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo T. Ngày 13/8/2020, Cơ quan điều tra công an huyện Gia Lâm đã trao trả chiếc xe máy trên cho anh Nguyễn Đình P.

Tại bản Cáo trạng số 129/CT-VKSGL ngày 25 tháng 8 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo Lường Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tham gia phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Lường Văn T từ 18 tháng đến 20 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/5/2020; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ số ma túy thu giữ của bị cáo.

Đề nghị trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen bên trong có số sim 0852412306 đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Cơ quan điều tra công an huyện Gia Lâm đã trao trả chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave α màu xanh, BKS: 29R7-7304 cho anh Nguyễn Đình P là phù hợp quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo Lường Văn T có quan điểm như sau: Nhất trí về tội danh và điều luật áp dụng đối với hành vi phạm tội của bị cáo theo Cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố. Bị cáo T là người có trình độ học vấn thấp, là người dân tộc thiểu số sống trong vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Tại các cơ quan tiến hành tố tụng, bị cáo thành khẩn khai báo, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, có thái độ ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T.

Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, người bào chữa, bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 22 giờ 45 Pt ngày 20/5/2020 tại khu vực Dốc Lã, Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội, Lường Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Heroine có khối lượng 0,242 gam để sử dụng, thì bị Cơ quan công an kiểm tra bắt giữ cùng vật chứng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:

[3.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Heroine là chất ma tuý rất độc hại, tàn phá và huỷ hoại sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính phát sinh ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác trong đời sống xã hội. Trong những năm qua, tội phạm về ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội diễn biến rất phức tạp, Nhà nước, các cấp chính quyền và Đoàn thể rất quan tâm và nỗ lực tuyên truyền, giáo dục về tác hại của ma tuý, kêu gọi toàn dân tích cực tham gia phòng chống tệ nạn về ma tuý và tội phạm may tuý. Bị cáo nhận thức được tác hại và hậu quả do ma tuý gây ra nhưng không tích cực phòng chống mà còn tàng trữ để sử dụng nên cần thiết phải xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung; góp phần đấu tranh phòng chống tệ nạn và các tội phạm về ma tuý trong đời sống xã hội.

[3.2] Về nhân thân bị cáo: Bị cáo là người nghiện ma túy, chưa có tiền án, tiền sự.

[3.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo là người có trình độ học vấn thấp, là người dân tộc thiểu số sống trong vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Như vậy, bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tổng hợp nhận định ở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian bằng việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm B việc răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tại phiên toà là phù hợp.

[3.5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên toà thể hiện: Bị cáo là người nghiện ma túy, không có việc làm, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen bên trong có số sim 0852412306 đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm đã xử lý các vật chứng khác theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[7] Về các nội dung khác:

Đối với đối tượng bán ma túy cho T, do không xác định được nhân thân, nên cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xác minh, xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với anh Nguyễn Đình P, quá trình điều tra anh P không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của T, Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lường Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lường Văn T 14 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/5/2020.

2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

3.1. Tịch thu, tiêu huỷ ma túy loại Heroine có khối lượng 0,242 gam (đã trích mẫu để giám định 0,018 gam) còn lại 0,224 gam thu giữ của bị cáo Lường Văn T, đựng trong 01 gói niêm phong có chữ ký xác nhận niêm phong của Giám định viên, cán bộ Công an xã Yên Thường niêm phong, Lường Văn T, do Phòng PC09-Công an thành phố Hà Nội hoàn lại sau giám định (tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 03/09/2020).

3.2 Hoàn trả bị cáo Lường Văn T: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen trong có lắp sim liên lạc, máy cũ đã qua sử dụng (tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 03/09/2020).

4. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 và Điều 14 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.

Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Lường Văn T.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 133/2020/HS-ST ngày 10/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:133/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về