Bản án 133/2019/HSST ngày 30/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 133/2019/HSST NGÀY 30/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 120/2019/TLST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 206/2019/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Sồng Pó C, tên gọi khác: Không, sinh năm 1992 tại SM, Sơn La; Nơi cư trú: Bản HH, xã MH, huyện SM, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; đảng, đoàn thể: Không; Con ông Sồng Bả L và con bà Giàng Thị D (đã chết); Có vợ là Lầu Thị L và có 02 con (con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2013); Tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/3/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Sồng Pó C: Ông Phan Ngọc Thắng - Luật sư Văn phòng luật sư Phan Thắng, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Sơn La, có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Lầu Thị L, sinh năm: 1992. Nơi cư trú: Bản HH, xã MH, huyện SM, tỉnh Sơn La. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 08 giờ 30 phút ngày 12/3/2019, tổ công tác Phòng PC04 Công an tỉnh Sơn La phối hợp với các lực lượng chức năng làm nhiệm vụ tại khu vực bản CC, xã MH, huyện SM, tỉnh Sơn La phát hiện 03 đối tượng có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra thì các đối tượng bỏ chạy, trong đó 02 đối tượng chạt thoát, tổ công tác kịp thời đuổi theo và bắt giữ được 01 đối tượng. Đối tượng được xác định là Sồng Pó C, sinh năm 1992, nơi cư trú:

Bản HH, xã MH, huyện SM, tỉnh Sơn La. Vật chứng thu giữ là 09 túi nilon bên trong chứa các viên nén màu hồng và 22 cục chất nhựa dẻo màu nâu đen (C khai là hồng phiến và thuốc phiện), 01 chiếc điện thoại di động và 01 xe máy nhãn hiệu EURO maco không có biển kiểm soát. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Sồng Pó C.

Hồi 16 giờ ngày 12/3/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra (PC04) Công an huyện tỉnh Sơn La thành lập hội đồng mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu trưng cầu giám định vật chứng:

09 túi nilon (chứa 1.783 viên nén màu hồng) có tổng khối lượng 182,47 gam, tích trong mỗi túi 05 viên nén màu hồng (tổng cộng 45 viên) có khối lượng 4,5 gam làm mẫu trưng cầu giám định ký hiệu từ C1A đến C9A.

22 cục chất nhựa dẻo màu nâu đen có tổng khối lượng 3.761,47 gam, trích 66 gam làm mẫu trưng cầu giám định ký hiệu từ C10A đến C31A.

Tại Kết luận giám định số 582 ngày 14/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Sơn La kết luận:

“Mẫu gửi giám định ký hiệu C1A đến C9A đều là chất ma túy; Loại chất Methamphetamine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 4,5 gam.

Mẫu gửi giám định ký hiệu C10A đến C31A đều là chất ma túy; Loại thuốc phiện, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 66 gam.

Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ được là 182,47 gam, loại chất Methamphetamine và 3.761,47 gam, loại chất Thuốc phiện”.

Quá trình điều tra, Sồng Pó C khai nhận:

Khoảng 10 giờ ngày 07/3/2019, Sồng Pó C đang ở nhà tại bản HH, MH, SM thì có một người phụ nữ tên H ở Lào Cai (người quen cũ) gọi điện thoại đặt vấn đề mua 5kg thuốc phiện và 10 túi hồng phiến. C đồng ý và nói hiện chưa có, C sẽ đi tìm mua, khi nào có sẽ thông báo sau.

Ngày 10/3/2019, C đi bộ theo đường tiểu ngạch đến nhà Vàng Thị P (người quen của C) ở bản HS, cụm NC, huyện ME, tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào hỏi mua nợ 5kg thuốc phiện và 10 túi hồng phiến, P đồng ý. Hai bên thỏa thuận mua bán với giá 7.000.000 đồng/ 1kg thuốc phiện và 1.700.000 đồng/1 túi hồng phiến, khi nào bán được sHẽ trả tiền sau. P hẹn sang ngày 11/3/2019 sẽ mang ma túy đến nhà cho C. Trao đổi xong, C đi về nhà và gọi điện thông báo cho H biết đã có ma túy và bảo H sang mua, H nói bị bệnh không sang được nên sẽ nhờ bạn H là HG ở Lào Cai đến nhà C giao dịch mua bán ma túy. Hai bên thỏa thuận giá 15.000.000 đồng/1kg thuốc phiện và 3.000.000 đồng/1 túi hồng phiến.

Khoảng 04 giờ ngày 11/3/2019, P mang ma túy (đựng trong hộp mì tôm) đến nhà giao cho C, nói bên trong có khoảng 4 đến 5kg thuốc phiện và 09 túi hồng phiến. C nhận ma túy và cất giấu trong nhà. Khoảng 17 giờ cùng ngày, có một người đàn ông gọi điện cho C, tự giới thiệu tên là HG – bạn của H và nói ngày 12/3/2019 sẽ đến SM gặp C để trao đổi mua bán ma túy, C nhất trí.

Đến 07 giờ ngày 12/3/2019, C nhận được điện thoại của HG nói đang ở khu vực CK, SM nhưng không biết đường vào MH, C bảo HG đứng đợi, C sẽ ra đón. Sau đó C điều khiển xe máy mang theo số ma túy mua được của P đi ra khu vực bản Bua Hin, MH, C cất giấu số ma túy và trong bụi cây ven đường rồi đi tiếp đến ngã ba Ý, MH thì gặp hai người đàn ông đi xem máy nhãn hiệu YAMAHA (C không nhớ biển kiểm soát), một người tự giới thiệu tên là HG – bạn của H đến mua ma túy. C chỉ đường và bảo HG cùng người đàn ông đi cùng điều khiển xe đến bản Bua Hin để giao nhận ma túy, còn C đi trước dẫn đường. Khi đi đến khu vực bản CC, xã MH, HG gọi điện cho C bảo xe HG đang bị hỏng, bảo C quay lại gặp HG để kiểm tra tiền. Khi C quay lại bản CC, HG và người đàn ông đi cùng đưa tiền cho C kiểm tra (105.000.000 đồng). Sau khi kiểm tra tiền, C điều khiển xe máy đến chỗ cất giấu ma túy ở bản Bua Hin, mang ma túy quay về bản CC (nơi HG đang đứng đợi). Khi hai bên đang trao đổi mua bán ma túy thì bị lực lượng chức năng phát hiện, bắt quả tang. HG và người đàn ông bỏ chạy thoát còn C thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ trong vụ án, C khai mua của một người phụ nữ dân tộc Mông tên Vàng Thị P, trú tại bản HS, cụm NC, huyện ME, tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào. Ngày 27/3/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra (PC04) Công an tỉnh Sơn La đã có công văn số 409 đề nghị Công an tỉnh Hủa Phăn, Lào xác minh, xử lý Vàng Thị P theo quy định của nước CHDCND Lào.

Đối với người phụ nữ tên H, người đàn ông tên HG và người đàn ông đi cùng HG, C không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể. Do đó Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, mở rộng vụ án.

Do có hành vi nêu trên, tại cáo trạng số: 113/CT-VKS-P1 ngày 19/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La truy tố Sồng Pó C về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Sồng Pó C tội mua bán trái phép chất ma túy.

Đề nghị áp dụng điểm h khoản 4 Điều 51, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015:

Xử phạt bị cáo Sồng Pó C 20 năm tù Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo. Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

- Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Sồng Pó C: Nhất trí với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La về tội danh và điều luật áp dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Sồng Pó C thừa nhận hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an tỉnh Sơn La, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Luật sư, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Sồng Pó C:

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và nội dung Cáo trạng truy tố đã thể hiện: Sau khi được một phụ nữ tên H (ở Lào Cai) đặt vấn đề mua ma túy, Sồng Pó C đã liên hệ và mua được của 01 người phụ nữ tên Vàng Thị P (người quen của C ở bên Lào) được khoảng 4kg thuốc phiện và 09 túi hồng phiến. C đã mang số ma túy trên đi giao dịch, mua bán với một người đàn ông tên HG (bạn của H). Khi hai bên đang tiến hành giao dịch mua bán ma túy thì bị phát hiện bắt quả tang và bị thu giữ 09 túi Methamphetamine có tổng khối lượng 182,47 gam, và 22 cục nhựa thuốc phiện có tổng khối lượng 3.761,47 gam.

Hành vi phạm tội của các bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 09 giờ 00 phút ngày 12/03/2019 tại Trụ sở Công an xã MH, SM, Sơn La đối với Sồng Pó C về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy cùng vật chứng thu giữ là 09 túi nilon chứa các viên nén màu hồng và 22 cục chất nhựa dẻo màu nâu (C khai là hồng phiến và thuốc phiện).

- Kết luận giám định số 582 ngày 14/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Sơn La kết luận:

“Mẫu gửi giám định ký hiệu C1A đến C9A đều là chất ma túy; Loại chất Methamphetamine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 4,5 gam.

Mẫu gửi giám định ký hiệu C10A đến C31A đều là chất ma túy; Loại thuốc phiện, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 66 gam.

Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ được là 182,47 gam, loại chất Methamphetamine và 3.761,47 gam, loại chất Thuốc phiện”.

- Lời khai nhận tội của các bị cáo Sồng Pó C tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người chứng kiến việc cơ quan Công an đã kiểm tra và thu giữ ma túy đối với bị cáo Sồng Pó C, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập lưu trong hồ sơ vụ án thể hiện việc bị cáo đang giao dịch mua bán ma túy thì bị phát hiện bắt quả tang.

Từ các căn cứ như đã nêu trên có đủ cơ sở kết luận bị cáo Sồng Pó C đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015

[3] Khung hình phạt áp dụng: Bị cáo Sồng Pó C có hành vi mua bán trái phép 182,47 gam Methamphetmine, và 3.761,47 gam nhựa thuốc phiện (tương đương 75,23 gam Methamphetamine), tổng cộng tương đương 257,7gam Methamphetamine, đã vi phạm tình tiết định khung hình phạt: “Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này” quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt từ mười lăm năm đến hai mươi năm tù, thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội, xâm phạm chính  sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy; tội phạm về ma túy còn là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác; do đó cần có mức án nghiêm khắc đối với bị cáo mới đảm bảo được tính răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính , bị cáo Sồng Pó C còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015. Song xét hoàn cảnh bị cáo khó khăn, không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ tráchính iệm hình sự

- Tình tiết tăng nặng tráchính iệm hình sự: Không.

- Tình tiết giảm nhẹ tráchính iệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cái nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

[7] Về vật chứng:

- Đối với 177,97 gam Methamphetamine và 3.697,47 gam thuốc phiện còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định, xét đây là loại hàng Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 chiếc di động nhãn hiệu HUAWEI màu bạc thu giữ của Sồng Pó C trong vụ án, xét là phương tiện bị cáo sử dụng để liên lạc phạm tội, cần tịch thu sung vào Ngân sáchính à nước.

- Đối với chiếc xe mô tô hai bánh nhãn hiệu EURO maco không có biển kiểm soát, được xác định là tài sản chung của chị Lầu Thị L và bị cáo Sồng Pó C, tuy nhiên, xét chiếc xe là phương tiện bị cáo sử dụng để phục vụ hành vi phạm tội, chiếc xe không đảm bảo điều kiện để lưu thông theo quy định, chị Lầu Thị L cũng không có ý kiến xin lại chiếc xe trên, do đó cần tịch thu sung vào Ngân sáchính à nước.

[8] Về án phí: Bị cáo Sồng Pó C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Sồng Pó C phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Hình phạt:

Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Bộ luật Hình sự 2015:

Xử phạt bị cáo Sồng Pó C 20 (hai mươi) năm tù.

Thời hạn tù của bị cáo Sồng Pó C tính từ ngày 12/3/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung(phạt tiền) đối với bị cáo.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, 3 điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 177,97 gam Methamphetamine và 3.697,47 gam thuốc phiện còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định được đựng trong một chiếc hộp vật chứng còn nguyên niêm phong, một mặt hộp vật chứng có ghi dòng chữ “Vật chứng nhập kho vụ Sồng Pó C, phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 12.3.2019, ký hiệu từ C1B đến C9B có tổng khối lượng 177,97gam nghi ma túy tổng hợp; Ký hiệu từ C10B đến C31B có tổng khối lượng 3795,47 gam nghi thuốc phiện”. Tại mép giáp lai được dán giấy niêm phong, trên giấy niêm phong có 08 dấu tròn đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La, cùng chữ ký dòng ghi rõ họ tên của các thành phần tham gia niêm phong của Lò Văn Thành, Hoàng Quốc Đức, Sồng Pó C, Hà Văn Hùng, Phạm Kiên Trung, Thào A Vừ.

- Tịch thu nộp Ngân sáchính à nước:

+ 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI màu bạc, kèm 01 sim trong máy, đã qua sử dụng thu giữ của Sồng Pó C trong vụ án được đựng trong 01 (một) chiếc phong bì do Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Sơn La phát hành nguyên niêm phong, một mặt phong bì có ghi dòng chữ “Vật chứng điện thoại nhãn hiệu HUAWEI màu bạc thu giữ của Sồng Pó C, bắt ngày 12.3.2019 về hành vi: Mua bán trái phép chất ma túy”. Mặt sau phong bì tại mép giáp lai được dán giấy niêm phong, trên giấy niêm phong có 02 dấu tròn đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La, cùng chữ ký dòng ghi rõ họ tên của các thành phần tham gia niêm phong của Sồng Pó C, Phạm Minh Đức, Vừ A Tếnh.

+ 01 (một) chiếc xe mô tô hai bánh nhãn hiệu EURO MACO, xe không có biển kiểm soát, xe có số khung: TL88CK1LF71002618, số máy VLLS162FNK7000218, xe không có gương chiếu hậu, sườn xe bên trái bị vỡ, kèm 01 chìa khóa xe thu giữ của Sồng Pó C trong vụ án.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS 2015; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Sồng Pó C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 30/11/2019)./. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 133/2019/HSST ngày 30/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:133/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về