Bản án 133/2019/HSST ngày 22/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 133/2019/HSST NGÀY 22/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 22 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 102/2019/HSST ngày 15/02/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1420/2019/QĐXXST-HS ngày 28/3/2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Tấn T (tên gọi khác: Líp), sinh năm 1986 tại Quảng Ngãi; nơi thường trú: Số 20/15/9 TL17, KP3B, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Căn hộ P20.10 Khu A2, Chung cư Topaz, đường C, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: thợ hớt tóc; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn T và bà Võ Thị Ngọc L; có vợ Lê Thị Bích T và 01 con sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: không. Bị bắt, tạm giam ngày 13/9/2018. (có mặt).

2. Ngô Tiến N (tên gọi khác: Bo), sinh năm 1979 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: 62/108 L.C.T, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 62/94 L.C.T, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: không; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn K và bà Lê Thị H (đều đã chết); chưa có vợ, con; tiền sự: không; tiền án: tại bản án số 190/2016/HSST ngày 26/4/2016 bị Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/12/2017, đã nộp án phí hình sự sơ thẩm và nộp tiền phạt tháng 7/2017;

nhân thân: tại bản án số 108/2010/HSST ngày 23/9/2010 bị Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/12/2012, đã nộp án phí hình sự sơ thẩm ngày 19/11/2010. Bị bắt, tạm giam ngày 12/9/2018. (có mặt).

Người bào chữa:

1. Luật sư Lê Nguyễn Quỳnh Thi thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tấn T. (có mặt)

2. Luật sư Cao Thị Kiều Trang thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Ngô Tiến N. (có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Ngô Thị Minh C, sinh năm 1977; trú tại: 62/108 L.C.T, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 12/9/2018, tại trước nhà số 302 Tân Hương, phường Tân Quý, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh, kiểm tra bắt quả tang Ngô Tiến N có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy để bán. Thu giữ tại dưới vè sau bên phải xe gắn máy biển số 51F5-5000 do Nam điều khiển có 01 gói nylon màu đen bên ngoài quấn băng keo, bên trong có 01 gói khăn giấy màu trắng, trong gói khăn giấy có 01 gói nylon chứa 292 viên nén hình tròn màu tím, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 104,5904gam loại Methylphenidate (theo Kết luận giám định số 1530/KLGĐ-H ngày 21/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh). Mở rộng điều tra, khoảng 02 giờ 30 phút ngày 13/9/2018 tại trước nhà số 103D Bờ Bao Tân Thắng, phường Sơn Kỳ, quận Tân Phú, tiến hành bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Tấn T là đối tượng đã bán ma túy cho Nam.

Tại cơ quan điều tra, Ngô Tiến N khai nhận: khoảng 18 giờ ngày 12/9/2018, người quen tên thường gọi là Beo (không rõ lai lịch) liên lạc qua điện thoại hỏi mua của Nam 300 viên ma túy dạng thuốc lắc. Để có ma túy bán cho Beo, Nam gọi cho T và thỏa thuận mua 300 viên ma túy với giá 100.000 đồng/viên và hẹn giao nhận tại Phòng 302 Khách sạn Hoa Hướng Dương, đường Lê Hồng Phong nối dài, Phường 12, Quận 10, khi nào bán xong N sẽ trả tiền cho T. Sau khi nhận 01 gói nylon bên trong có khoảng 300 viên ma túy dạng thuốc lắc màu tím (do không mở ra đếm nên không biết chính xác số lượng), N gọi báo cho Beo biết giá 110.000 đồng/viên và hẹn giao dịch tại khách sạn Ly Ly trên đường Bờ Bao Tân Thắng, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. N đem số ma túy (thuốc lắc) mới mua của T về nhà, lấy băng keo quấn lại rồi dán dưới vè sau bên phải xe máy biển số 51F5-5000. Khi Nam đang trên đường đến điểm hẹn để bán số ma túy (thuốc lắc) trên cho Beo thì bị Công an kiểm tra bắt quả tang như đã nêu trên.

Nguyễn Tấn T khai nhận: khoảng 20 giờ ngày 12/9/2018, Nam gọi điện thoại cho T hỏi mua 300 viên ma túy (thuốc lắc), T đồng ý. Sau đó, T gọi cho một người tên Phương (không rõ lai lịch) để hỏi mua thêm 270 viên ma túy dạng thuốc lắc (cộng với số ma túy lần trước T mua của Phương bán cho N nhưng bị N trả lại) để đủ 300 viên thuốc lắc bán cho N, Phương đồng ý và đem số ma túy (thuốc lắc) đã thỏa thuận đến Phòng 302 khách sạn Hoa Hướng Dương bán cho T với giá 80.000 đồng/viên, nhưng chưa lấy tiền. Sau khi có ma túy, T gọi cho N đến Phòng 302 Khách sạn Hoa Hướng Dương để nhận và có nhắn tin cho N thỏa thuận giá bán. Tại đây, T đưa cho N 01 gói nylon chứa khoảng 300 viên ma túy dạng thuốc lắc và đồng ý cho Nam trả tiền sau khi bán xong. Đến khoảng 02 giờ 30 phút ngày 13/9/2018, khi T đang đi đến trước nhà số 103D Bờ Bao Tân Thắng, phường Sơn Kỳ, quận Tân Phú thì bị Công an quận Tân Phú mời về làm việc như đã nêu trên.

Ngoài ra, T và N còn khai nhận cách ngày bị bắt 01 tuần, N có mua của T 30 viên ma túy dạng thuốc lắc với giá 200.000 đồng/viên, đã trả cho T 6.000.000 đồng nhưng khi mang về sử dụng thấy kém chất lượng nên đã trả lại cho T và T trả lại cho Nam 1.000.000 đồng, T còn thiếu Nam 5.000.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 69/CT-VKS-P1 ngày 12/02/2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Nguyễn Tấn T, Ngô Tiến N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm e khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Tấn T, Ngô Tiến N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Các bị cáo thừa nhận việc Viện kiểm sát truy tố các bị cáo về tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng, không oan sai.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích lời khai của các bị cáo, cùng với các tình tiết, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Tấn T và Ngô Tiến N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, vai trò của bị cáo T là người bán ma túy nên mức hình phạt phải nặng hơn bị cáo Nam, đối với số ma túy lần đầu bị cáo T bán cho bị cáo N đã được N trả lại và tiếp tục đưa vào bán lại lần sau, do đã tính bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với toàn bộ số ma túy đã thu giữ nên không xem xét các bị cáo phạm tội từ hai lần trở lên theo hướng có lợi cho các bị cáo. Bị cáo T không có tình tiết tăng nặng, bị cáo N phạm tội thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo khai báo thành khẩn, bị cáo T có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội; bị cáo N có thời gian phục vụ trong quân đội. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm e khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Tấn T từ 16 đến 18 năm tù; buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 15.000.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

- Áp dụng điểm e khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Ngô Tiến N từ 16 đến 18 năm tù, buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

Đồng thời đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Luật sư Lê Nguyễn Quỳnh Thi trình bày bài bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tấn T thống nhất với tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: bị cáo có thái độ thành khai báo khẩn, ăn năn hối cải, là lao động chính trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn, con còn nhỏ, vợ không có việc làm ổn định; bị cáo có nhân thất tốt, lần đầu phạm tội; chưa có tiền án, tiền sự; số ma túy đã bị thu giữ chưa phát tán ra cộng đồng và khối lượng ma túy bị thu giữ nằm ở đầu khung hình phạt, số ma túy này bao gồm 30 viên ma túy kém chất lượng bị trả lại trước đó; trong vụ án này không có đồng phạm, chỉ có người mua và người bán nên không có người chủ mưu, cầm đầu. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt với mức hình phạt thấp hơn mức mà Viện kiểm sát đã đề nghị, về hình phạt bổ sung thì đề nghị giảm cho bị cáo do bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn.

Bị cáo Nguyễn Tấn T đồng ý với lời bào chữa của luật sư, không tranh luận gì thêm, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Luật sư Cao Thị Kiều Trang trình bày bài bào chữa cho bị cáo Ngô Tiến N thống nhất với tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, cha đã chết; số ma túy đã bị thu giữ chưa phát tán ra cộng đồng; bị cáo có thời gian phục vụ trong quân đội. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo mức hình phạt dưới mức mà Viện kiểm sát đề nghị, ngoài ra chiếc xe gắn máy thu của bị cáo là xe của bà Ngô Thị Minh C, bà C không biết N sử dụng xe để đi bán ma túy nên đề nghị trả lại cho bà C.

Bị cáo Ngô Tiến N đồng ý với bài bào chữa của luật sư, không tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Trong phần đối đáp, đại diện Viện kiểm sát cho rằng các vị Luật sư bào chữa cho bị cáo T, bị cáo Nam thống nhất với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát về tội danh và điều luật áp dụng nên Viện kiểm sát không tranh luận. Về các tình tiết giảm nhẹ, Luật sư bào chữa cho bị cáo T cho rằng ma túy kém chất lượng là không đúng vì loại ma túy này nhẹ hơn các loại ma túy khác, việc mua bán ma túy giữa hai bị cáo đã hoàn thành nên Luật sư cho rằng ma túy chưa phát tán ra cộng đồng là không đúng. Đối với các tình tiết giảm nhẹ khác thì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của của cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Tấn T và Ngô Tiến N không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các Luật sư bào chữa cho các bị cáo Nguyến Tấn T, Ngô Tiến N không có ý kiến về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung bị can, các bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Nguyễn Tấn T, Ngô Tiến N khai nhận những hành vi sai trái do các bị cáo gây ra như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung bị can, vật chứng thu giữ, kết luận giám định,… nên đã có đủ căn cứ xác định: do muốn có tiền tiêu xài, Nguyễn Tấn T đã mua ma túy của đối tượng tên Phương (không rõ lai lịch) về bán lại cho Ngô Tiến N, sau khi mua ma túy của T, Nam tiếp tục bán lại cho người khác nhằm kiếm lời. Khoảng 20 giờ ngày 12/9/2018, T mua của Phương 270 viên ma túy dạng thuốc lắc với giá 80.000 đồng/viên, trả tiền sau kèm với số ma túy còn dư trước đó để đủ 300 viên bán cho N với giá 100.000 đồng/viên. Sau đó, T gặp và bán lại cho N tại Phòng 302 Khách sạn Hoa Hướng Dương, đồng ý cho N trả tiền sau khi bán xong. N nhận gói ma túy có chứa khoảng 300 viên thuốc lắc mang về nhà, lấy băng keo quấn lại rồi dán dưới vè sau bên phải xe máy biển số 51F5-5000 rồi gọi điện bán cho Beo với giá 110.000 đồng/viên và hẹn giao dịch tại khách sạn Ly Ly trên đường Bờ Bao Tân Thắng, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi Nam đang trên đường đến điểm hẹn để bán số ma túy (thuốc lắc) trên cho Beo thì bị kiểm tra bắt quả tang, thu giữ 01 gói nylon chứa 292 viên nén hình tròn màu tím, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 104,5904gam loại Methylphenidate (theo Kết luận giám định số 1530/KLGĐ-H ngày 21/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh). Đến khoảng 02 giờ 30 phút ngày 13/9/2018, khi T đang đi đến trước nhà số 103D Bờ Bao Tân Thắng, phường Sơn Kỳ, quận Tân Phú thì bị Công an quận Tân Phú mời về làm việc và bắt giữ.

Ngoài ra, T và Nam còn khai nhận cách ngày bị bắt 01 tuần, N có mua của T 30 viên ma túy dạng thuốc lắc với giá 200.000 đồng/viên, nhưng khi mang về sử dụng thấy kém chất lượng nên đã trả lại cho T. Do ngoài lời khai của các bị cáo thì không có căn cứ nào khác để chứng minh cũng như để xác định được khối lượng ma túy mà các bị cáo đã mua bán nên các bị cáo không phải chịu trách nhiệm hình sự với lần mua bán này.

Với các hành vi trên, xét đã có đủ cơ sở để tuyên bố các bị cáo Nguyễn Tấn T, Ngô Tiến N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm e khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 như bản cáo trạng truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm hại đến việc quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy mà còn xâm hại trực tiếp đến trật tự trị an xã hội, tiếp tay cho tệ nạn ma túy gia tăng. Các bị cáo biết rất rõ ma túy là một tệ nạn xã hội nguy hiểm, không chỉ hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân lây lan, phát triển căn bệnh HIV-AIDS, mà còn là nguồn gốc phát sinh ra nhiều loại tội phạm khác nhưng vì muốn thu lợi bất chính nên đã cố ý thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy, cần thiết phải áp dụng tội danh và hình phạt của điều luật truy tố quy định tại Điều 251 của Bộ luật hình sự để xử phạt đối với mỗi bị cáo với mức án tương xứng thì mới có tác dụng giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội. Đồng thời, áp dụng khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự phạt bổ sung các bị cáo một khoản tiền để sung vào ngân sách nhà nước.

Ngoài lần phạm tội này thì tại bản án số 190/2016/HSST ngày 26/4/2016 bị cáo Ngô Tiến N còn bị Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/12/2017, chưa được xóa án tích, nay lại phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý nên phạm tội thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Do đó, mức hình phạt đối với bị cáo Ngô Tiến N phải cao hơn so với bị cáo Nguyễn Tấn T.

[4] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như vị đại diện Viện kiểm sát và các luật sư bào chữa đã đề cập như: các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải để áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra các bị cáo phải chịu.

Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Nguyễn Tấn T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là lần đầu phạm tội, nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, con còn nhỏ sinh năm 2012, vợ không có việc làm ổn định; số ma túy đã bị bắt và thu giữ, chưa phát tán ra ngoài xã hội là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Với khối lượng ma túy phải chịu trách nhiệm hình sự là 104,5904gam ma túy ở thể rắn loại Methylphenidate nằm ở đầu khung hình phạt, bản thân bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ hình sự như kể trên, nên xét có thể áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo với mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng đáp ứng được yêu cầu phòng chống tội phạm, nhằm thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước, cũng như tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội được sửa chữa lỗi lầm, cải tạo tốt và trở thành công dân có ích cho xã hội.

Đối với đối tượng tên Phương là người bán ma túy cho T và đối tượng tên Beo là người mua ma túy của Nam, do T và N không khai rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh, làm rõ để xử lý.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với các điện thoại di động hiệu Nokia thu giữ của Nguyễn Tấn T, điện thoại di động hiệu Samsung thu giữ của Ngô Tiến N, các bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội và còn giá trị nên áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 Ipad thu giữ của bị cáo Nguyễn Tấn T không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- Đối với xe hai bánh gắn máy biển số 51F5-5000 thu giữ của Ngô Tiến N, qua xác minh là của bà Ngô Thị Minh C (chị ruột của Ngô Tiến N) đứng tên chủ sở hữu, ngày 12/9/2018, Nam mượn xe của bà C đi bán ma túy và bị tạm giữ xe. Bà Châu không biết Nam lấy xe sử dụng vào việc mua bán ma túy nên trả lại xe gắn máy trên cho bà Ngô Thị Minh C.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyến Tấn T, Ngô Tiến N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

1. Áp dụng điểm e khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt Ngô Tiến N 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/9/2018.

Buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

2. Áp dụng điểm e khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt Nguyễn Tấn T 13 (mười ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/9/2018.

Buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng để sung ngân sách nhà nước.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói ma túy còn lại sau giám định, đã được niêm phong bên ngoài đánh số 1530/18 có chữ ký của GĐV Trần Đình Hải và ĐTV Bành Trọng Hữu.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia không có nắp lưng, mặt trước bị cháy ở viền bên phải, số Imei 1: 57300086200626, Imei 2: 57300086200634; 01 điện thoại di động hiệu Samsung, số máy: E1175TGSMH;

- Trả lại cho Nguyễn Tấn T: 01 Ipad, số Serial: F9FS70JBGHMK.

- Trả lại cho bà Ngô Thị Minh C: 01 xe hai bánh gắn máy, nhãn hiệu Kawasaki, số loại: không xác định, biển số 51F5-5000, số khung: AN090G- A39683 (sét mờ), số máy: AN090GEAV39683.

(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số 160/19 ngày 22/01/2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

326
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 133/2019/HSST ngày 22/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:133/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về