Bán án 133/2018/HNGĐ-ST ngày 22/11/2018 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH AN GIANG

BÁN ÁN 133/2018/HNGĐ-ST NGÀY 22/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 22 tháng 11 năm 2018 tại Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 541/2018/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2018 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 139/2018/QĐXXST - HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 111/2018/QĐST-HNGĐ ngày 29/10/2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Lương Văn H, sinh năm 1979. Có mặt

ĐKHKTT: số 312, chung cư B, phường K, quận N, thành phố Cần Thơ.

2. Bị đơn: Chị Ôn Tố Thị Q, sinh năm 1985. Vắng mặt

ĐKHKTT: số 132/3, tổ 51, khóm Đ, phường P, thành phố L, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 23/7/2018 và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn anh Lương Văn H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh H và chị Ôn Tố Thị Q quen biết, tìm hiểu và tự nguyện tiến đến hôn nhân và đăng ký kết hôn vào ngày 05/12/2005 tại UBND phường K, quận N, thành phố Cần Thơ. Đây là hôn nhân lần thứ nhất của anh và chị Q. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc được vài tháng thì phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống. Khoảng tháng 3 năm 2008 chị Q bỏ nhà đi, anh H có tìm kiếm nhưng không gặp. Đến năm 2015, anh H có gửi đơn yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố L giải quyết ly hôn với chị Q.

Quá trình giải quyết vụ án, chị Q được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng vắng mặt, Tòa án yêu cầu anh H cung cấp địa chỉ mới nơi chị Q hiện đang cư trú, anh H không cung cấp được nên rút yêu cầu khởi kiện. Sau đó, anh H gửi đơn yêu cầu Tòa án Thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú đối với chị Q và được Tòa án chấp nhận, anh H đã thực hiện việc đăng báo, đài Trung ương tìm kiếm chị Q trong thời hạn 04 tháng nhưng chị Q không về địa phương để giải quyết theo yêu cầu ly hôn của anh H.

Về quan hệ con chung: Không có.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

* Bị đơn chị Ôn Tố Thị Q vắng mặt trong quá trình tố tụng, không gửi văn bản trình bày ý kiến, chứng cứ chứng minh đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa hôn nhân và gia đình sơ thẩm:

* Nguyên đơn anh Lương Văn H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Ôn Tố Thị Q; Về con chung: không có; Về tài sản chung, nợ chung: không có.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, thành phần Hội đồng xét xử cũng như xác định quan hệ tranh chấp, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong vụ án đúng theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Về nội dung vụ án, anh H yêu cầu ly hôn với chị Q nhưng chị Q đã bỏ địa phương đi từ tháng 3/2008 đến nay, anh H đã yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú đối với chị Q và được Tòa án chấp nhận. Hiện nay, đã hết thời hạn thông báo nhưng chị Q vẫn không có mặt, anh H vẫn kiên quyết xin ly hôn với chị Q. Xét thấy, hiện tại hôn nhân của anh H, chị Q không thể tiếp tục thực hiện tình nghĩa vợ chồng theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn theo quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; Về con chung: không có; Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng đét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng:

 [1] Tranh chấp giữa anh Lương Văn H và chị Ôn Tố Thị Q là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

 [2] Tại Quyết định số 05/2017/QĐDS-ST ngày 22/6/2017 của Tòa án nhân dân thành phố L về việc thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, xác định nơi cư trú cuối cùng của chị Q: số 132/3, tổ 51, khóm T, phường P, thành phố L, tỉnh An Giang nên nguyên đơn khởi kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố L theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

 [3] Bị đơn chị Ôn Tố Thị Q vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai nhưng Tòa án đã tiến hành tống đạt trực tiếp, niêm yết các văn bản tố tụng cho bị đơn hợp lệ. Như vậy, từ khi Tòa án thụ lý đến ngày xét xử vụ án bị đơn đã từ chối các quyền, cũng như không thực hiện nghĩa vụ của bị đơn theo quy định tại Điề u 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

 [4] Bị đơn Ôn Tố Thị Q bán nhà bỏ địa phương đi từ tháng 10/2008, không rõ đang cư trú mới. Nguyên đơn đã yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú đối với bị đơn và thực hiện các thủ tục tìm kiếm bị đơn theo quy định pháp luật. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, điểm b khoản 1 Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn Ôn Tố Thị Q.

Về nội dung tranh chấp:

 [1] Về hôn nhân: Nguyên đơn, bị đơn tiến đến hôn nhân xuất phát từ sự nguyện, có đăng ký kết hôn theo qui định của pháp luật, phù hợp Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận. Tuy nhiên, quá trình chung sống anh H rằng vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, thiếu chia sẻ, cảm thông nhau trong đời sống vợ chồng, cha mẹ hai bên gia đình xảy ra không hòa hợp nên chị Q cùng gia đình bán nhà rời địa phương đi từ năm2008 đến nay không liên lạc được.

Xét thấy, trong hôn nhân vợ chồng phải thể hiện tình cảm yêu thương, quan tâm chăm sóc, tin tưởng nhau và chia sẻ những khó khăn để vượt qua thử thách, đây là cơ sở vững chắc để bồi đắp cho hôn nhân, cho gia đình hạnh phúc. Giữa nguyên đơn, bị đơn đã có thời gian quen biết, tìm hiểu và tiến đến hôn nhân xuất phát từ tình cảm yêu thương, nhưng khi đã thành vợ chồng thì cả hai không xây dựng gia đình hạnh phúc. Tại biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 05/10/2018 được Ủy ban nhân dân phường A, quận N, thành phố Cần Thơ xác nhận “Ngày 05/12/2007, Ủy ban nhân dân phường có cấp giấy chứng nhận kết hôn cho anh H, chị Q và không tiếp nhận đơn yêu cầu hòa giải mâu thuẫn vợ chồng”. Mặt khác, anh H cho rằng vợ chồng đã ly thân từ năm 2008 đến nay và đã thực hiện thủ tục tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú nhưng chị Q không về Tòa án nơi cư trú cuối cùng để giải quyết ly hôn với anh H. Điều này thể hiện mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không còn thực hiện quyền và nghĩa vụ với nhau, không còn tình cảm yêu thương, chăm sóc nhau. Do đó, việc nguyên đơn yêu cầu ly hôn là có căn cứ, phù hợp với Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 51; Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [2] Về con chung: Không có.

 [3] Về tài sản chung: Không có. [4] Về nợ chung: Không có.

[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn phải nộp án phí hôn nhân sơ thẩm theo qui định pháp luật.

 [6] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 235; điểm b khoản 1 Điều 238; Điều 266; khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 51; Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và án phí Tòa án;

Xử vắng mặt bị đơn Ôn Tố Thị Q.

* Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lương Văn H đối với bị đơn chị Ôn Tố Thị Q Thị Q

[1] Về quan hệ hôn nhân: anh Lương Văn H được ly hôn với chị Ôn Tố

[2] Về con chung: Không có

 [3] Về tài sản chung: Không có

 [5] Về nợ chung: Không có

 [6] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn anh Lương Văn H phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm theo qui định pháp luật, số tiền này được khấu trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố L theo biên lai thu số 0009704 ngày 23/7/2018. Nguyên đơn đã thực hiện xong nghĩa vụ nộp án phí

 [7] Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bán án 133/2018/HNGĐ-ST ngày 22/11/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:133/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về