TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 132/2020/HS-ST NGÀY 27/08/2020 VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 27 tháng 8 năm 2020 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 137/2020/HSST ngày 03/8/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 147/2020/QĐXXST-HS ngày 12/8/2020 đối với bị cáo:
Dương Gia B; Giới tính: Nam; sinh năm 1992 tại tỉnh Bình Thuận; Hộ khẩu thường trú: thị trấn Đức Tài, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận; Chỗ ở: Phường 13, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ văn hóa: 11/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Dương Tấn N và bà Phan Thị Kim A Hoàn cảnh gia đình: Có vợ tên Nguyễn Thị Mỹ Trâm, có 02 người con con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền sự: Không; Tiền án: 01 - Ngày 14/06/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận xử phạt 1 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành án tại trại giam Sông Cái, tỉnh Ninh Thuận, đến ngày 26/01/2019 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 16/4/2020 (có mặt).
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà Phan Thị Kim A, địa chỉ: : Tổ 9, khu phố 9, thi trấn Đức Tài, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận (có mặt).
2/ Phạm H, Địa chỉ Trung sơn, xã Tịnh Hòa, huyện Sơn Tịnh, Thành phố Quảng Ngãi.(vắng mặt).
3/ Nguyễn Văn C, Địa chỉ: Phường Bình Khánh, Thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang(vắng mặt).
4/ Huỳnh Đạt S, Trú tại: 249/1/3 Khu phố 6, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh(vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 15 giờ 00 ngày 16/4/2020 Công an phường 13, quận Gò Vấp kiểm tra hành chính phòng trọ tại địa chỉ: 1155 Lê Đức Thọ, phường 13, quận Gò Vấp phát hiện Dương Gia B, Nguyễn Tấn Bảnh và Nguyễn Thị Thanh Thủy có nghi vấn hoạt động làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức. Qua kiểm tra, lực lượng chức năng thu giữ một số phương tiện, dụng cụ, tài liệu liên quan đến hoạt động làm giả giấy tờ và dụng cụ sử dụng ma túy nên tiến hành niêm phong và đưa 03 đối tượng về phường 13, quận Gò Vấp làm việc.
Tại Cơ quan CSĐT Công an quận Gò Vấp bị can Dương Gia B thừa nhận bản thân hoạt động làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức và khai nhận cụ thể như sau:
Trước đây khi ở quê đối tượng Dương Gia B hành nghề in thiệp cưới nên có sẵn số công cụ như: máy ín màu, máy cắt giấy, máy ép nhựa, máy dập thẻ, máy vi tính do công việc kinh doanh không ổn định nên vào giữa tháng 03/2020 B liên lạc với người bạn chơi thân tên Nguyễn Tấn B đang thuê trọ ở tại địa chỉ: 1155 Lê Đức Thọ, phường 13, quận Gò Vấp rồi xin vào ở trọ chung với Bảnh. Khi vào ở chung B mang theo toàn bộ số công cụ trên để hoạt động kinh doanh.
Cùng thời gian này B nảy sinh ra ý định làm giả tài liệu bán cho khách có nhu cầu để thu lợi. Để thực hiện hoạt động phạm tội B sử dụng số điện thoại “0989052854” rồi tạo tài khoản Facebook tên “Dương Vũ Thất” để quảng cáo nhận làm tài liệu giả như: giấy chứng minh nhân dân, căn cước công dân, giáy đăng ký xe, hóa đơn chuyển tiền Banking, giấy xác nhận tạm trú với chi phí cụ thể: bằng lái xe là 1.200.000đồng, giấy đăng ký xe 700.000đồng, giấy xác nhận tạm trú là 800.000đồng, hóa dơn chuyển tiền ngân hàng (Banking) là 100.000đồng….vv. Khi khách có nhu cầu cần làm giả tài liệu thì liên lạc qua Facebook hoặc số điện thoại của B để đặt làm, sau khi làm xong tài liệu giả B giao cho khách thông qua Grab công nghệ.
Qúa trình điều tra, B khai mới bắt đầu hoạt động làm giả tài liệu nên các tài liệu giả như: chứng minh nhân dân, căn cước công dân, giấy phép lái xe thì B đang tập làm chứ chưa làm hoàn thiện được nên chưa nhận đặt làm giả những tài liệu loại này cho khách và thừa nhận các tài liệu giả bị thu giữ được đánh số ký hiệu từ A1 đến A14 nêu trên là do B đã làm giả ra mà có. Dương Gia B đã thực hiện trót lọt được 02 lần chỉnh sửa hóa đơn chuyển tiền ngân hàng cho 02 vị khách (không rõ lai lịch) đặt làm thông qua mạng xã hội Facebook thu lợi được số tiền 200.000 đồng. Hiện Cơ quan CSĐT chưa xác định được lai lịch của 02 đối tượng này, khi xác định được sẽ điều tra làm rõ xử lý sau.
Ngoài ra bị can Dương Gia B khai nhận vào ngày 10/4/2020 B nhận làm giả giấy chứng nhận đăng ký tạm trú do Công an phường 13, quận Gò Vấp cấp cho nickname Facebook tên “Sang Hy Vu Nguyen” sử dụng số điện thoại: 0329421243 với giá 800.000đồng và đã thu lợi được số tiền 800.000đồng, hẹn ngày 16/4/2020 giao tài liệu giả. Qua truy xét Đội CSĐT TP về TTXH Công an quận Gò Vấp kiểm tra mời đối tượng Vũ Xuân Sang – sinh năm: 1990 Thường trú: 117/4 ấp Dốc Mơ 3, xã Gia Tân 1, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai về trụ sở làm việc. Đối tượng Sang khai nhận sử dụng nickname Facebook tên “Sang Hy Vu Nguyen” và số điện thoại 032942143 nêu trên và thừa nhận do có nhu cầu cần tạm trú tại phường 13, quận Gò Vấp nên đặt B làm giả giấy xác nhận tạm trú nêu trên. Bị can B khai nhận khi hoạt động phạm tội thu lợi bất chính được số tiền 1.000.000đồng và đã tiêu xài hết.
Đối với Vũ Xuân S chưa đủ cơ sở để xử lý hình sự, Cơ quan CSĐT Công an quận Gò Vấp đã chuyển hồ sơ của Vũ Xuân Sang cho Tổ trinh sát địa bàn thuộc Đội CSĐT TP về TTXH Công an quận Gò Vấp để xử phạt hành chính.
Đối với Nguyễn Tấn B và Nguyễn Thị Thanh T khai không biết Dương Gia B làm giấy tờ giả phù hợp với lời khai của B nên không đủ căn cứ xử lý Bảnh và Thủy về hành vi đồng phạm “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan,tổ chức”.
Khi kiểm tra lực lượng Công an phát hiện nơi ở của B có dụng cụ sử dụng ma túy và 1,7810 gam là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine. Tại Cơ quan CSĐT Công an quận Gò Vấp các đối tượng Dương Gia B, Nguyễn Tấn B và Nguyễn Thị Thanh T không thừa nhận nguồn gốc gói ma túy trên là của mình và cho biết vào tối ngày 15/4/2020 B có liên lạc với người bạn chơi cùng Game RAN ONLINE tên Tuấn đi cùng một nam thanh niện trạc khoảng 24 – 25 tuổi là bạn của Tuấn (không rõ lai lịch) qua phòng trọ tại địa chỉ: 1155 Lê Đức Thọ, phường 13, quận Gò Vấp để ngồi nhậu rồi cùng sử dụng ma túy đá, các đối tượng B, Bảnh và Thủy cho biết nguồn gốc gói ma túy nêu trên có thể là do Tuấn và bạn của Tuấn đưa tới. Với chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án không đủ cơ sở để xử lý hình sự đối với Dương Gia B, Nguyễn Tấn B và Nguyễn Thị Thanh T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy cũng như hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Cơ quan CSĐT Công an quận Gò Vấp đã bàn giao đối tượng Nguyễn Tấn Bảnh và Nguyễn Thị Thanh T cho Công an phường 13, quận Gò Vấp để đưa đối tượng B và T đi cai nghiện bắt buộc. Hiện Cơ quan CSĐT Công an quận Gò Vấp chưa xác định được đối tượng Tuấn và nam thanh niên trên, khi xác định được sẽ điều tra làm rõ để xử lý sau. Ngày 15/7/2020 Cơ quan CSĐT Công an quận Gò Vấp đã ra Quyết định tách vụ án hình sự “Tàng trữ trái phép chất ma túy” cùng vật chứng phát hiện tại nhà số 1155 Lê Đức Thọ, phường 13, quận Gò Vấp để tiếp tục điều tra làm rõ.
Vật chứng thu giữ:
- 01 gói tinh thể màu trắng thu giữ trong túi áo khoác trong phòng trọ đã được niêm phong có chữ ký xác nhận của B, Bảnh, Thủy và hình dấu Công an Phường 13, quận Gò Vấp. Qua giám định nhanh có khối lượng 1,7810 gam là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine.
- 01 cây nỏ bằng thủy tinh dùng để sử dụng ma túy, 01 cân tiểu ly.
- Công cụ sử dụng để làm giả tài liệu: 02 máy in màu, 01 máy ép nhựa, 01 máy dập thẻ, 01 bàn cắt giấy, 01 máy vi tính (màn hình và CPU).
- 01 xe gắn máy hiệu Honda SH biển số 86B8-102.22, số máy: KF14E- 0001166, số khung: RLHKF1413DY001084. Qua xác minh chiếc xe máy trên do chị Phan Thị Kim A, sinh năm 1969, hộ khẩu thường trú: Tổ 9, khu phố 9, thị trấn Đức Tài, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận là mẹ của bị can Dương Gia B đứng tên chủ sở hữu. Chị Kim Anh khai mua xe trên vào tháng 08/2012 sử dụng làm phương tiện đi lại, đến cuối tháng 03/2020 chị Kim Anh cho Dương Gia B mượn xe đi làm tại TP. Hồ Chí Minh. Lời khai của chị Kim Anh phù hợp với lời khai của B. Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho chị Phan Thị Kim A.(BL:96-97).
- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu đỏ và sim số 0989052854 (B liên lạc khách đặt làm giấy tờ giả).
- Tiền Việt Nam: 1.000.000 đồng (tiền thu lợi bất chính).
- 03 giấy xác nhận tạm trú do Công an phường 13, quận Gò Vấp cấp chưa ghi rõ thông tin, có dấu mộc và chữ ký xác nhận của Trưởng Công an phường 13 tên đại tá. Nguyễn Văn Trung. Kết quả xác minh tại Công an phường 13, quận Gò Vấp không có ai là Trưởng Công an phường 13 tên đại tá Nguyễn Văn Trung như nêu trên. Căn cứ Kết luận giám định số 807/KLGĐ – TT ngày 24/4/2020 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an Tp. Hồ Chí Minh kết luận là giả.
- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 035938, biền số: 14K1 – 9279, đề ngày 22/11/2004 (ký hiệu A1).
- 02 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy cùng có số: 035245, biển số: 59G2 – 676.53, đề ngày 17/8/2019 (ký hiệu A2, A3).
- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 048605, biền số: 47B2 – 129.37, đề ngày 07/01/2017 (ký hiệu A4).
- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 035938, không có mặt sau (ký hiệu A5).
- 01 chứng minh nhân dân số: 261323818 mang tên Nguyễn Thị Thanh Thủy – sinh ngày: 07/12/1994, đề ngày 29/10/2009 (ký hiệu A6).
- 01 chứng minh nhân dân số 321627224 mang tên Lê Thị Ngọc Vy – sinh ngày 19/02/1997, đề ngày 11/04/2019 (ký hiệu A7).
- 01 chứng minh nhân dân số: 022697385 mang tên Võ Hoàng Yến Phương – sinh ngày 05/06/1990, đề ngày 13/06/2016 (ký hiệu A8).
- 01 chứng minh nhân dân số: 091019461 mang tên Nguyễn Phi Hùng – sinh ngày 09/03/1989, đề ngày 06/05/2015 (ký hiệu A9).
- 01 căn cước công dân số: 038090061447 mang tên Lê Hữu Hùng – sinh ngày 01/05/1990, đề ngày 15/04/2017 (ký hiệu A10).
- 01 căn cước công dân số: 001191056252 mang tên Phạm Trúc Quỳnh – sinh ngày 26/06/1991, đề ngày 08/03/2016 (ký hiệu A11).
- 01 căn cước công dân số: 777777777777 mang tên Dương Vũ Thất – sinh ngày 17/07/1987, đề ngày 26/03/2018 (ký hiệu A12).
- 01 giấy phép lái xe số: 750195015617 mang tên Đỗ Ngọc Thành – sinh ngày 10/06/1994, đề ngày 17/04/2019 (ký hiệu A13).
- 01 giấy phép lái xe số: AL 877794 mang tên Vũ Thị Mỹ Phương – sinh ngày 25/10/1980, đề ngày 06/07/2009 (ký hiệu A14).
- 01 chứng minh nhân dân số 025448010 mang tên Huỳnh Đạt S – sinh ngày 08/09/1978, đề ngày 05/04/2011 (ký hiệu A15).
- 01 chứng minh nhân dân số: 272265204 mang tên Nguyễn Tấn Bảnh – sinh ngày 21/02/1994, đề ngày 14/12/2011 (ký hiệu A16). Qua làm việc Nguyễn Tấn Bảnh cho biết đây là chứng minh nhân dân của anh Bảnh và có yêu cầu nhận lại.
- 01 chứng minh nhân dân số: 264243360 mang tên Dương Gia B – sinh ngày 06/10/1992, đề ngày 21/11/2007 (ký hiệu A17). Qua làm việc Dương Gia B cho biết đây là chứng minh nhân dân của B sử dụng.
- 01 giấy phép lái xe số: 890170010860 mang tên Nguyễn Văn C – sinh ngày 07/07/1999, đề ngày 16/08/2017 (ký hiệu A18).
- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 004361, biền số: 76V8 – 5524, đề ngày 16/11/2012 (ký hiệu A19).
- 01 thẻ B hiểm số: GD7750601108917 mang tên Vũ Thị Mỹ Phượng – sinh ngày 25/10/1980, đề ngày 13/5/2014 (ký hiệu A20).
- 02 bìa hồ sơ, 05 túi ni lông.
Căn cứ Kết luận giám định số: 1374/KLGD – TT ngày 15/7/2020 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an Tp. Hố Chí Minh kết luận:
- Các tài liệu cần giám định được đánh số kí hiệu từ A1 đến A14 là giả.
- Các tài liệu cần giám định ký hiệu A15, A18, bản in phôi giấy các tài liệu A16, A17, A19 là thật.
- Không đủ cơ sở kết luận hình dấu tròn, dấu chữ ký, dấu tên Nguyễn Văn Khánh trên tài liệu cần giám định ký hiệu A16, hình dấu tròn, chữ ký, dấu tên Phạm Đình Sơn trên tài liệu cấn giám định ký hiệu A19, tài liệu cấn giám định ký hiệu A20.
Cơ quan điều tra đã nhập kho vật chứng theo Lệnh nhập kho vật chứng số 195 và Phiếu nhập kho vật chứng số 154 ngày 13/07/2020.
Đối với số tiền thu lợi bất chính 1.000.000 đồng, chị Phan Thị Kim A mẹ của B đã tự nguyện nộp lại cho Cơ quan điều tra để khắc phục hậu quả.
Tại bản cáo trạng số 139/CTr-VKS ngày 03/8/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố bị cáo Dương Gia B về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” quy định tại các điểm a khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát luận tội, đưa ra quan điểm xét xử và đề nghị Hội đồng xét xử - Xử phạt bị cáo Dương Gia B từ 04 năm đến 05 năm tù.
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu đỏ và sim số 0989052854; số tiền 1.000.000 đồng;
- Tịch thu lưu theo hồ sơ vụ án 02 bìa hồ sơ, 05 túi nylon; 03 giấy xác nhận tạm trú do Công an phường 13, quận Gò Vấp cấp chưa ghi rõ thông tin, có dấu mộc và chữ ký xác nhận của Trưởng Công an phường 13 tên đại tá. Nguyễn Văn Trung; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 035938, biền số: 14K1 – 9279, đề ngày 22/11/2004 (ký hiệu A1); 02 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy cùng có số: 035245, biền số: 59G2 – 676.53, đề ngày 17/8/2019 (ký hiệu A2, A3); 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 048605, biền số:
47B2 – 129.37, đề ngày 07/01/2017 (ký hiệu A4); 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 035938, không có mặt sau (ký hiệu A5); 01 chứng minh nhân dân số: 261323818 mang tên Nguyễn Thị Thanh Thủy – sinh ngày: 07/12/1994, đề ngày 29/10/2009 (ký hiệu A6); 01 chứng minh nhân dân số 321627224 mang tên Lê Thị Ngọc Vy – sinh ngày 19/02/1997, đề ngày 11/04/2019 (ký hiệu A7);
01 chứng minh nhân dân số: 022697385 mang tên Võ Hoàng Yến Phương – sinh ngày 05/06/1990, đề ngày 13/06/2016 (ký hiệu A8); 01 chứng minh nhân dân số: 091019461 mang tên Nguyễn Phi Hùng – sinh ngày 09/03/1989, đề ngày 06/05/2015 (ký hiệu A9); 01 căn cước công dân số: 038090061447 mang tên Lê Hữu Hùng – sinh ngày 01/05/1990, đề ngày 15/04/2017 (ký hiệu A10); 01 căn cước công dân số: 001191056252 mang tên Phạm Trúc Quỳnh – sinh ngày 26/06/1991, đề ngày 08/03/2016 (ký hiệu A11); 01 căn cước công dân số: 777777777777 mang tên Dương Vũ Thất – sinh ngày 17/07/1987, đề ngày 26/03/2018 (ký hiệu A12); 01 giấy phép lái xe số: 750195015617 mang tên Đỗ Ngọc Thành – sinh ngày 10/06/1994, đề ngày 17/04/2019 (ký hiệu A13); 01 giấy phép lái xe số: AL 877794 mang tên Vũ Thị Mỹ Phương – sinh ngày 25/10/1980, đề ngày 06/07/2009 (ký hiệu A14); 01 thẻ B hiểm số: GD7750601108917 mang tên Vũ Thị Mỹ Phượng – sinh ngày 25/10/1980, đề ngày 13/5/2014 (ký hiệu A20) - Trả lại 01 chứng minh nhân dân số 025448010 mang tên Huỳnh Đạt S – sinh ngày 08/09/1978 cho ông S, - Trả lại 01 giấy phép lái xe số: 890170010860 mang tên Nguyễn Văn C – sinh ngày 07/07/1999 cho ông C.
- Trả lại 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 004361, biền số: 76V8 – 5524 mang tên Phạm H cho ông H.
- Trả lại cho ông Nguyễn Tấn B 01 chứng minh nhân dân số: 272265204 mang tên Nguyễn Tấn B – sinh ngày 21/02/1994.
- Trả lại cho bị cáo B 01 chứng minh nhân dân số: 264243360 mang tên Dương Gia B – sinh ngày 06/10/1992.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì bị cáo Dương Gia B đã khai nhận hành vi phạm tội là Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức như nội dung bản cáo trạng đã nêu.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với tang vật vụ án được thu giữ, phù hợp với kết luận điều tra của Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đối chiếu với điều luật tương ứng do Bộ luật hình sự quy định, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của bị cáo Dương Gia B đã phạm vào tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 341 của Bộ luật hình sự.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bỡi lẽ đã xâm phạm đến trật tự Quản lý hành chính Nhà Nước, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an, đến các hoạt động của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức. Ngoài ra, hành vi của bị cáo còn tiếp tay tạo điều kiện thúc đẩy cho các đối tượng xấu trong xã hội thực hiện các hành vi phạm tội khác ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực của cộng đồng dân cư trong xã hội. Bị cáo có đủ năng lực nhận thức để biết rõ hành vi làm giả con dấu, giấy tờ tài liệu của Cơ quan tổ chức Nhà nước là vi phạm pháp luật, nhưng vì hám lợi nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm. Bị cáo làm giả con dấu tài liệu với số lượng rất lớn trên 06 tài liệu của cơ quan tổ chức và thu lợi bất chính 1.000.000 đồng nên Viện kiểm sát quận Gò Vấp truy tố bị cáo theo điểm a khoản 3 Điều 341 của Bộ luật hình sự là có cơ sở. bên cạnh đó bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích lần phạm tội này là tái phạm nên Hội đồng xét xử sẽ áp dụng tình tiết tăng nặng tại điểm h khoản 1 điều 52 đối với bị cáo, Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài mới đủ tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt sống có ích. Đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội
[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo các tình tiết: Tại cơ quan điều tra và qua diễn biến phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[5] Về hình phạt bổ sung được qui định tại khoản 4 điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Hội đồng xét xử xét tính chất của vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên miễn phạt.
[6] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu đỏ và sim số 0989052854 bị cáo dùng để liên lạc để giao giấy tờ giả, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung công quỹ nhà nước;
Đối với số tiền 1.000.000 đồng bị cáo thu lợi bất chính Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ nhà nước;
- Đối với 02 bìa hồ sơ, 05 túi nylon đựng 03 giấy xác nhận tạm trú do Công an phường 13, quận Gò Vấp cấp chưa ghi rõ thông tin, có dấu mộc và chữ ký xác nhận của Trưởng Công an phường 13 tên đại tá. Nguyễn Văn Trung; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 035938, biền số: 14K1 – 9279, đề ngày 22/11/2004 (ký hiệu A1); 02 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy cùng có số: 035245, biền số: 59G2 – 676.53, đề ngày 17/8/2019 (ký hiệu A2, A3); 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 048605, biền số: 47B2 – 129.37, đề ngày 07/01/2017 (ký hiệu A4); 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 035938, không có mặt sau (ký hiệu A5); 01 chứng minh nhân dân số: 261323818 mang tên Nguyễn Thị Thanh Thủy – sinh ngày: 07/12/1994, đề ngày 29/10/2009 (ký hiệu A6); 01 chứng minh nhân dân số 321627224 mang tên Lê Thị Ngọc Vy – sinh ngày 19/02/1997, đề ngày 11/04/2019 (ký hiệu A7); 01 chứng minh nhân dân số: 022697385 mang tên Võ Hoàng Yến Phương – sinh ngày 05/06/1990, đề ngày 13/06/2016 (ký hiệu A8); 01 chứng minh nhân dân số: 091019461 mang tên Nguyễn Phi Hùng – sinh ngày 09/03/1989, đề ngày 06/05/2015 (ký hiệu A9); 01 căn cước công dân số: 038090061447 mang tên Lê Hữu Hùng – sinh ngày 01/05/1990, đề ngày 15/04/2017 (ký hiệu A10); 01 căn cước công dân số: 001191056252 mang tên Phạm Trúc Quỳnh – sinh ngày 26/06/1991, đề ngày 08/03/2016 (ký hiệu A11); 01 căn cước công dân số: 777777777777 mang tên Dương Vũ Thất – sinh ngày 17/07/1987, đề ngày 26/03/2018 (ký hiệu A12); 01 giấy phép lái xe số: 750195015617 mang tên Đỗ Ngọc Thành – sinh ngày 10/06/1994, đề ngày 17/04/2019 (ký hiệu A13); 01 giấy phép lái xe số: AL 877794 mang tên Vũ Thị Mỹ P – sinh ngày 25/10/1980, đề ngày 06/07/2009 (ký hiệu A14); 01 thẻ B hiểm số: GD7750601108917 mang tên Vũ Thị Mỹ P – sinh ngày 25/10/1980, đề ngày 13/5/2014 (ký hiệu A20) qua giám định là giả nên Hội đồng xét xử quyết định tich thu lưu theo hồ sơ vụ án.
- Đối với 01 chứng minh nhân dân số 025448010 mang tên Huỳnh Đạt S, 01 giấy phép lái xe số: 890170010860 mang tên Nguyễn Văn C, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 004361, biền số: 76V8 – 5524 mang tên Phạm H qua giám định là giấy tờ thật nên Hội đồng xét xử nghĩ nên giao trả lại cho những người đứng tên trong giấy tờ trên.
- Đối với 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Tấn B số: chứng minh 272265204 qua giám định là giấy thật nên Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho ông Nguyễn Tấn B .
- Đối với 01 chứng minh nhân dân số: 264243360 mang tên Dương Gia B là giấy tờ thật, Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho bị cáo.
Đối với 01 xe gắn máy hiệu Honda SH biển số 86B8-102.22, số máy: KF14E-0001166, số khung: RLHKF1413DY001084. Qua xác minh chiếc xe máy trên do chị Phan Thị Kim A, sinh năm 1969, hộ khẩu thường trú: Tổ 9, khu phố 9, thị trấn Đức Tài, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận là mẹ của bị cáo Dương Gia B đứng tên chủ sở hữu. Chị Kim Anh khai mua xe trên vào tháng 08/2012 sử dụng làm phương tiện đi lại, đến cuối tháng 03/2020 chị Kim Anh cho Dương Gia B mượn xe đi làm tại TP. Hồ Chí Minh, không biết bị cáo xử dụng chiếc xe trên làm phương tiện phạm tội. Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho chị Phan Thị Kim A là phù hợp với qui định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét lại.
Tại phiên tòa hôm nay chị Nguyễn Thị Kim Anh không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 1.000.000 đồng mà chị đã nộp tại cơ quan điều tra khắc phục hậu quả mà bị cáo thu lợi bất chính và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét lại.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm h khoản 1 điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;
Tuyên bố bị cáo Dương Gia B phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”;
Xử phạt bị cáo Dương Gia B 03(ba) năm 09(chín) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 16/04/2020.
Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu đỏ và sim số 0989052854 và số tiền 1.000.000 đồng;
- Tịch thu lưu theo hồ sơ vụ án 02 bìa hồ sơ, 05 túi nylon; 03 giấy xác nhận tạm trú do Công an phường 13, quận Gò Vấp cấp chưa ghi rõ thông tin, có dấu mộc và chữ ký xác nhận của Trưởng Công an phường 13 tên đại tá. Nguyễn Văn Trung; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 035938, biền số: 14K1 – 9279, đề ngày 22/11/2004 (ký hiệu A1); 02 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy cùng có số: 035245, biền số: 59G2 – 676.53, đề ngày 17/8/2019 (ký hiệu A2, A3); 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 048605, biền số:
47B2 – 129.37, đề ngày 07/01/2017 (ký hiệu A4); 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 035938, không có mặt sau (ký hiệu A5); 01 chứng minh nhân dân số: 261323818 mang tên Nguyễn Thị Thanh Thủy – sinh ngày: 07/12/1994, đề ngày 29/10/2009 (ký hiệu A6); 01 chứng minh nhân dân số 321627224 mang tên Lê Thị Ngọc Vy – sinh ngày 19/02/1997, đề ngày 11/04/2019 (ký hiệu A7);
01 chứng minh nhân dân số: 022697385 mang tên Võ Hoàng Yến Phương – sinh ngày 05/06/1990, đề ngày 13/06/2016 (ký hiệu A8); 01 chứng minh nhân dân số:
091019461 mang tên Nguyễn Phi Hùng – sinh ngày 09/03/1989, đề ngày 06/05/2015 (ký hiệu A9); 01 căn cước công dân số: 038090061447 mang tên Lê Hữu Hùng – sinh ngày 01/05/1990, đề ngày 15/04/2017 (ký hiệu A10); 01 căn cước công dân số: 001191056252 mang tên Phạm Trúc Quỳnh – sinh ngày 26/06/1991, đề ngày 08/03/2016 (ký hiệu A11); 01 căn cước công dân số:
777777777777 mang tên Dương Vũ Thất – sinh ngày 17/07/1987, đề ngày 26/03/2018 (ký hiệu A12); 01 giấy phép lái xe số: 750195015617 mang tên Đỗ Ngọc Thành – sinh ngày 10/06/1994, đề ngày 17/04/2019 (ký hiệu A13); 01 giấy phép lái xe số: AL 877794 mang tên Vũ Thị Mỹ Phương – sinh ngày 25/10/1980, đề ngày 06/07/2009 (ký hiệu A14); 01 thẻ B hiểm số: GD7750601108917 mang tên Vũ Thị Mỹ Phượng – sinh ngày 25/10/1980, đề ngày 13/5/2014 (ký hiệu A20).
- Trả lại 01 chứng minh nhân dân số 025448010 mang tên Huỳnh Đạt S – sinh ngày 08/09/1978 cho ông S - Trả lại 01 giấy phép lái xe số: 890170010860 mang tên Nguyễn Văn C – sinh ngày 07/07/1999 cho ông C.
- Trả lại 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 004361, biền số:
76V8 – 5524 mang tên Phạm H cho ông H.
- Trả lại cho ông Nguyễn Tấn B 01 chứng minh nhân dân số: 272265204 mang tên Nguyễn Tấn B – sinh ngày 21/02/1994.
- Trả lại cho bị cáo B 01 chứng minh nhân dân số: 264243360 mang tên Dương Gia B – sinh ngày 06/10/1992.
(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 154/PNK ngày 13/07/2020 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp) .
Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.
Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.
Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 132/2020/HS-ST ngày 27/08/2020 về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức
Số hiệu: | 132/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về