Bản án 132/2018/HS-ST ngày 31/10/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 132/2018/HS-ST NGÀY 31/10/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 10 năm 2018, tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Vĩnh Phúc, Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 127/2018/HS-ST ngày 17 tháng 10 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 125/2018/HSST- QĐ ngày 19 tháng 10 năm 2018, đối với bị cáo:

Phan Bá T , sinh ngày 20/6/1968 tại Vĩnh Phúc; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn Việt X, xã Việt X, huyện V , tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 4/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Bá T và Nguyễn Thị L; vợ là Trịnh Thị H và có 02 con; tiền sự: Không; tiền án: Có 02 tiền án, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 40/HSST ngày 22/6/2010, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt bị cáo 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/6/2012, thi hành xong phần án phí dân sự vào tháng 9/2010; tại Bản án hình sự sơ thẩm số 144/HSST ngày 25/9/2015, Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xử phạt bị cáo 42 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo chấp hành xong hìnhphạt tù ngày 20/4/2018, thi hành xong phần án phí vào tháng 10/2015; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/8/2018 cho đến nay (có mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Mạnh D , sinh năm 1983; trú tại: phường D, thành phố V, tỉnh Phú Thọ (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 40 phút ngày 08/8/2018, tại khu vực cổng Công ty giày da, thuộc khu hành chính 8, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Tổ công tác Công an thành phố Vĩnh Yên phát hiện và bắt quả tang Phan Bá T có hành vi bán trái phép chất ma túy cho đối tượng là Nguyễn Mạnh D .

Tang vật thu giữ gồm có: 02 gói giấy nhỏ bên trong có chứa chất cục bột màu trắng được cất giấu cạnh gốc cây gần vị trí nơi T đang đứng (T khai nhận đó là 02 gói ma túy (Heroine) của T cất giấu để bán cho D nhưng chưa kịp bán thì bị Công an bắt giữ), vật chứng được niêm phong có ký hiệu A1; thu trong lòng bàn tay phải của T số tiền 400.000đ (T khai nhận là tiền vừa bán ma túy cho D mà có); tạm giữ của T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar đã qua sử dụng.

Tại Kết luận giám định số: 1087/KLGĐ ngày 11/8/2018, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Heroine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,2060 gam không kể bao bì. Khối lượng Heroine trong 0,2060 gam mẫu là 0,0897 gam”.

Về nguồn gốc 02 gói ma tuý đem bán, Phan Bá T khai nhận: Khoảng 13 giờ ngày 08/8/2018, T đang ở nhà tại khu 5, Thôn Việt X, xã Việt X, huyện V thì có một người đàn ông là bạn nghiện đi xe máy đến (không biết tên, tuổi, địa chỉ và biển kiểm soát của xe) rủ T đi mua ma túy Heroin sử dụng và bán kiếm lời, T đồng ý. Người đàn ông này chở T đến đoạn đường thuộc cánh đồng (không rõ địa chỉ) rồi bảo T đứng chờ. Một lúc sau, người này đến đón T và nói cho T biết đã mua được ma túy rồi chở T đến khu vực cổng Công ty giày da Vĩnh Yên bán kiếm lời. Tại đây, người này đưa cho T 02 gói ma túy Heroin để T đi bán, T cầm 02 gói ma túy trên đi đến giấu ở gốc cây ven đường, đối diện cổng Công ty giày da. Sau đó, T vào quán nước cạnh đó ngồi uống nước, mục đích tìm con nghiện để bán. Khi đang ngồi uống nước, T gặp Nguyễn Mạnh D ở Phú Thọ hỏi mua 02 gói ma túy (Heroin) với giá 400.000đ, T đồng ý. Khi D lấy tiền đưa cho T , T đi ra gốc cây nơi T vừa cất giấu 02 gói ma túy để lấy bán cho D thì bị phát hiện bắt quả tang.

Tại Cáo trạng số: 129/CT-VKSTPVY ngày 15/10/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố bị cáo Phan Bá T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại Cơ quan điều tra bị cáo Phan Bá T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên.

Tại phiên tòa, bị cáo Phan Bá T vẫn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Nguyễn Mạnh D vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra đã khai nhận: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 08/8/2018, tại khu vực cổng Công ty giày da, thuộc khu hành chính 8, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, D có đưa cho T 400.000đ để mua 02 gói ma túy (Heroin) với mục đích sử dụng. Sau khi nhận tiền, T đi ra gốc cây lấy ma túy để đưa cho D thì bị Công an bắt giữ và thu giữ vật chứng (bút lục số 26 và từ bút lục 58 - 63).

Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra khai nhận phù hợp với nội dung Cáo trạng đã nêu trên (bút lục 27 và từ bút lục 64 - 68).

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Phan Bá T từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù. Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy 0,0910 gam ma túy và toàn bộ bao gói ma túy còn lại sau giám định; tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 400.000đ thu giữ của T ; trả lại T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar.

Bị cáo không có bào chữa, tranh luận khác. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội nêu trên của bị cáo Phan Bá T tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:

Khoảng 13 giờ 40 phút ngày 08/8/2018, tại khu vực cổng Công ty giày da, thuộc khu hành chính 8, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, bị cáo Phan Bá T đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho đối tượng nghiện ma túy là Nguyễn Mạnh D để lấy số tiền 400.000đ thì bị Tổ công tác Công an thành phố Vĩnh Yên phát hiện và bắt quả tang. Tang vật thu giữ là 02 gói giấy nhỏ bên trong có chứa chất cục bột màu trắng được giám định là ma túy loại Heroin có khối lượng 0,0897g.

Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo Phan Bá T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Tuy nhiên, trước đó bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên đây là tình tiết để định khung tăng nặng theo quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) có khung hình phạt tù từ 07 đến 15 năm. 

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người; gây ra một lớp người nghiện trong xã hội làm tác hại cho chính bản thân người nghiện và gia đình họ cũng như cho cộng đồng nói chung. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 15 năm tù nên theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm rất nghiêm trọng.

Trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân xấu, đã 02 lần bị kết án về hành vi cùng loại tội, các tiền án đó chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội. Mặc dù 02 tiền án trước đó là căn cứ để định khung hình phạt nên không được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng cũng chứng tỏ bị cáo là đối tượng rất coi thường pháp luật, không biết ăn năn hối cải để hoàn lương. Trong vụ án này, hành vi của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý, động cơ là thu lời bất chính. Hiện nay trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên các tội phạm về ma túy có chiều hướng gia tăng, đây là nguyên nhân làm mất ổn định tình hình an ninh chính trị tại địa phương và phát sinh các tội phạm khác trong xã hội. Do đó, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt có xem xét đến các tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” để giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Tuy nhiên, bị cáo là con nghiện không có tài sản và nghề nghiệp nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Đối với những người có liên quan đến vụ án gồm: Người đàn ông đưa 02 gói ma túy cho T đi bán nhưng T khai không biết tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông này nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ đề cập xử lý sau là có căn cứ, đúng pháp luật. Đối với Nguyễn Mạnh D là người hỏi mua ma túy của T để sử dụng, nhưng D chưa nhận được ma túy của T thì bị bắt nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với D về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ, đúng pháp luật.

[6] Về vật chứng: Đối với số ma túy và bao gói ma túy hoàn lại sau giám định không có giá trị sử dụng cần tịch thu để tiêu hủy; đối với số tiền 400.000đ đã thu giữ của bị cáo T , đây là tiền do phạm tội mà có nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước; đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar đã thu giữ của bị cáo T , đây là tài sản của bị cáo không liên quan đến tội phạm nên cần trả lại cho bị cáo. Tuy nhiên, do bị cáo còn phải thực hiện nghĩa vụ về án phí nên cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[7] Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Phan Bá T 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 08/8/2018).

Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy 0,0910 gam ma túy và bao gói ma túy hoàn lại sau giám định; tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 400.000đ đã thu giữ của bị cáo Phan Bá T ; trả lại bị cáo Phan Bá T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar đã qua sử dụng nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án (Đặc điểm tang vật như Biên bản bàn giao vật chứng ngày 22/10/2018).

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Phan Bá T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 132/2018/HS-ST ngày 31/10/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:132/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về