Bản án 13/2021/HS-ST ngày 28/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH THẠNH, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 13/2021/HS-ST NGÀY 28/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 28 tháng 05 năm 2021 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ.

Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 11/2021/TLST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

1/ Bị cáo Phạm Thị X, sinh năm 1977; ĐKTT: Ấp 6, thị trấn K, huyện P, tỉnh Hậu Giang; Chỗ ở hiện nay: ấp Q, xã T, huyện V, thành phố Cần Thơ; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Phật; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 04/12; Con ông Phạm Chí L, sinh năm 1934 (chết); mẹ Ngô Thị N, sinh năm 1947; có 07 anh, chị em ruột lớn sinh năm 1960, nhỏ sinh năm 1981; sống chung như vợ chồng với: Lý Khánh G, sinh năm 1977; Võ Lê Hoài N, sinh năm 1979 (chết); Trần Văn B, sinh năm 1977; có 03 người con, lớn nhất sinh năm 1995, nhỏ nhất sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/3/2021 đến nay.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Bà Phạm Thị K, sinh năm 1960

 2/ Ông Phạm Thanh P, sinh năm 1993

3/ Ông Huỳnh Thành T, sinh năm 1989 Cùng địa chỉ: ấp L, xã T, huyện V, thành phố Cần Thơ (bị cáo có mặt, còn lại vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Phạm Thị X bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ truy tố về hành vi như sau:

Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 05/3/2021 qua công tác tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Vĩnh Thạnh kết hợp với Công an xã Vĩnh Trinh tiến hành khám xét khẩn cấp người và chổ ở tại nhà của ông Trần Văn B – sinh năm 1972 và bị cáo Phạm Thị X sinh năm 1977, thuộc ấp V, xã T, huyện V, thành phố Cần Thơ đã phát hiện 04 gói giấy bạc bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng đựng trong hộp nhựa màu đen (nghi là ma túy), 17 miếng giấy bạc, 07 miếng ni lon màu đen, 03 miếng nilon màu xanh, 04 con dao lam bằng kim loại, 06 hột quẹt gas, 01 cây kéo bằng kim loại, tiền Việt Nam 13.500.000đ nên lực lượng làm nhiệm vụ lập biên bản niêm phong, thu giữ các tang vật liên quan và mời các đối tượng về cơ quan Công an để làm rõ. Ngoài ra, Cơ quan cảnh sát điều tra còn tạm giữ của người nghiện tên Phạm Thanh P và Huỳnh Thành T 01 xe mô tô biển số 65L1 – 341.46 màu sơn đỏ đen, 01 điện thoại di động hiệu M –power màu xanh đen sim số 0760925636, tiền Việt Nam 350.000đ.

Tại cơ quan điều tra P và T khai nhận: khoảng 16h 30 phút ngày 05/3/2021 cả hai hùn tiền mỗi người 100.000đ để Trung điện thoại liên lạc với bị cáo X hỏi mua ma túy, X đồng ý nhưng không giao ma túy mà kêu Trần Thị Bé L, sinh năm 1993 giao ma túy cho P; sau khi tìm nơi sử dụng hết ma túy, khoảng 19 giờ cùng ngày P, T tiếp tục hùn tiền để liên lạc hỏi mua 350.000đ ma túy thì X đồng ý. Khi T và P đến nhà X nhưng chưa lấy được ma túy thì bị công an phát hiện, lúc này X đã rời khỏi địa phương. Ngoài ra, T và P đã thừa nhận nhiều lần mua ma túy của X và L số tiền mỗi lần từ 150.000đ đến 350.000đ.

Tại cơ quan điều tra Bé L khai nhận: Bản thân là người nghiện, đã nhiều lần bán ma túy dùm cho X từ khoảng cuối tháng 02/2021 đến ngày 05/3/2021 (trong đó: bán cho P, T khoảng 04 lần, mỗi lần từ 150.000đ đến 300.000đ và còn bán ma túy cho nhiều người nhưng không rõ họ tên địa chỉ), số tiền bán ma túy L đưa hết cho bị cáo X, X cho L ma túy để sử dụng. Riêng ông B cha ruột của Bé L đã khai nhận chỉ biết X và L có nghiện ma túy nhưng không biết việc mua bán ma túy.

Đến ngày 31/3/2021 X đến Công an huyện Vĩnh Thạnh đầu thú và thừa nhận hành vi tang trữ trái phép chất ma túy, xác định các tang vật bị công an thu giữ ngày 05/3/2021 tại nhà của ông B là của X cất giấu trong phòng riêng nhưng tại thời điểm bị khám xét do sợ bị bắt nên đã rời khỏi địa phương. Ngoài ra, X còn khai nhận để có ma túy sử dụng X đã mua ma túy của một bé gái khoảng 13 tuổi ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang (không rõ họ tên địa chỉ) mỗi lần từ 150.000đ đến 450.000đ, mục đích mua là để sử dụng.

Cơ quan điều tra đã tiến hành cho nhận dạng, đối chất giữa X với P, T nhưng X chỉ thừa nhận có sử dụng ma túy chung với P và Tmà không có mua ma túy trái phép từ ai, ngoài lời khai của P và T thì không còn chứng cứ nào khác chứng minh X có hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

Căn cứ vào kết luận giám định số 87/KLGĐ – PC09, ngày 12/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, công an thành phố Cần Thơ, kết luận: Chất bột (dạng cục) màu trắng trong 04 gói giấy bạc gửi giám định, là ma túy loại heroin, khối lượng 0,9304 gram.

Đối với Bé L thừa nhận có bán ma túy dùm cho X nhiều lần nhưng đến ngày 05/4/2021 L đã tử vong do đột quỵ nên không xử lý.

Đối với Trần Văn B sống chung nhà nhưng không biết X mua ma túy về cất giấu để sử dụng nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Đối với P và T đã nhiều lần mua ma túy để sử dụng nhưng hành vi chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan điều tra đã đề nghị Công an xã Thạnh Mỹ xử lý hành chính giáo dục tại xã phường thị trấn theo Nghị định 111/2013/NĐ – CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ. Quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Về vật chứng: Các vật chứng có liên quan Cơ quan điều tra đã thu giữ và nhập kho vật chứng và xử lý vật chứng theo qui định.

Tại bản cáo trạng số 13/CT-VKSVT-HS ngày 17/5/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ truy tố bị cáo Phạm Thị X về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Thị X khai nhận: Thống nhất với nội dung bản cáo trạng đại diện Viện kiểm sát công bố tại phiên tòa. Bị cáo thừa nhận toàn bộ số ma túy cơ quan điều tra thu giữ khi khám xét là của bị cáo. Bị cáo nhất trí với kết luận giám định của cơ quan chuyên môn và biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, thấy ăn năn hối cải.

Đại diện VKSND huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ thực hành quyền công tố tại phiên toà công bố bản luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo.

Sau khi nghe bản luận tội của VKSND huyện Vĩnh Thạnh, bị cáo không có ý kiến tranh luận và bào chữa mà thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản luận tội đã nêu. Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa ngày hôm nay, các người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan K, T, P đều vắng mặt, việc vắng mặt những người này không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, trên cơ sở đề nghị của Bị cáo và đại diện viện kiểm sát, căn cứ vào Điều 191, 192 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử đủ cơ sở để xét xử vắng mặt những người này.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an huyện Vĩnh Thạnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, Do đó, việc tiến hành tố tụng của các cơ quan và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[3] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thị X thừa nhận hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra và qua thẩm tra tại phiên tòa.

[4] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên Cáo trạng truy tố bị cáo Phạm Thị X về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị áp dụng:

-Tuyên bố:

Bị cáo Phạm Thị X phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Thị X từ 03 năm đến 04 năm tù.

- Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ:

- 01 gói niêm phong sau giám định số 87/KL- PC09, ngày 12/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ.

- 17 miếng giấy bạc đã cắt nhỏ;

- 07 miếng nilon màu đen đã được cắt nhỏ;

- 03 miếng nilon màu xanh đã được cắt nhỏ;

- 04 lưỡi dao lam đã qua sử dụng;

- 06 hột quẹt gas;

- 01 cây kéo bằng kim loại đã qua sử dụng; Trả lại:

- 01 điện thoại di động hiệu M –power, màu xanh đen và một sim mạng mobifone số 0706925636, số seri ghi trên sim 840118092234500WD cho Huỳnh Thành Trung.

- 13.500.000đ tiền Việt Nam cho bị cáo Phạm Thị X.

- 200.000đ cho Huỳnh Thành T.

- 150.000đ cho Phạm Thanh P.

+ Công nhận cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu 01 xe mô tô biển số kiểm soát 65L1 – 341.46 màu sơn đỏ - đen.

[5] Như vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Phạm Thị X có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Việc truy tố bị cáo về tội danh trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật và đúng khung hình phạt áp dụng.

[6] Xét thấy, bị cáo nhận thức được hành vi mua ma túy cất giấu trong nhà là vi phạm pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền quản lý độc quyền về các chất ma túy của Nhà nước. Tội phạm ma túy còn là nguyên nhân, mầm móng làm gia tăng các loại tội phạm khác trong xã hội. Bị cáo còn trong độ tuổi lao động nhưng không biết chăm chỉ lao động để tạo thu nhập chính đáng, giúp ích gia đình và xã hội mà lao vào còn đường nghiện ngập ma túy dẫn đến tội phạm. Vì vậy, cần xử mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung. Đồng thời, giúp cho bị cáo có thời gian từ bỏ ma túy, trở thành người có ích.

[7] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa thể hiện sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu, đầu thú, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo có con nhỏ. Đó là các căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[8] Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo, do có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.

[9] Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt, điều luật áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, xử lý vật chứng là có căn cứ nên được chấp nhận.

[10] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Thị X phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự; Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Thị X 04 (bốn) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 31/3/2021;

- Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ:

- 01 gói niêm phong sau giám định số 87/KL- PC09, ngày 12/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ.

- 17 miếng giấy bạc đã cắt nhỏ;

- 07 miếng nilon màu đen đã được cắt nhỏ;

- 03 miếng nilon màu xanh đã được cắt nhỏ;

- 04 lưỡi dao lam đã qua sử dụng;

- 06 hột quẹt gas;

- 01 cây kéo bằng kim loại đã qua sử dụng; Trả lại:

- 01 điện thoại di động hiệu M –power, màu xanh đen và một sim mạng mobifone số 0706925636, số seri ghi trên sim 840118092234500WD cho Huỳnh Thành Trung.

- 13.500.000đ tiền Việt Nam cho bị cáo Phạm Thị X;

- 200.000đ cho Huỳnh Thành T;

- 150.000đ cho Phạm Thanh P.

Vật chứng hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ đang quản lý theo quyết định chuyển vật chứng số 08/QĐ – VKSVT – HS, ngày 17/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh.

+ Công nhận cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu 01 xe mô tô biển số kiểm soát 65L1 – 341.46 màu sơn đỏ - đen.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo, các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án hoặc trích sao án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2021/HS-ST ngày 28/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:13/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Thạnh - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về